Paticcasamuppada 014

ABHIDHAMMAṬṬHA  SAṄGAHA

TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP

CHƯƠNG VIII: PACCAYASAṄGAHAVIBHᾹGO PAṬICCASAMUPPᾹDADῙPANῙ

TỔNG HỢP PHÂN TÍCH DUYÊN HỆ LIÊN QUAN TƯƠNG SINH MINH GIẢI

(Khóa Trình Trung Học Vô Tỷ Pháp Đệ Nhị)

Tác Giả: VISUDDHI GUTTAJAYO / SADDHAMMA JOTIKA MAHĀ THERA

                               Dịch Giả: SANTAKICCO MAHĀ THERA

                 (Đại Trưởng Lão TỊNH SỰ)

                                Biên Tập: Bhikkhu PASĀDO

 

 P.L. 2566                                                                                                 D.L. 2022

LỜI HƯỚNG DẪN VIỆC SỬ DỤNG GIÁO KHOA THƯ

CỦA NGƯỜI THU THẬP CỨ LIỆU

 

  1. Trước tiên thì hãy xem bản đồ chính phương của từng mỗi Chương; và rồi tiếp đến, mới hẵng nghiên cứu ở phần chi tiết.
  2. Phần chi tiết thì xin xem nương theo phần Giáo Trình.
  3. Thường luôn phải xem phần Vấn và Đáp đặt để ở cuối quyển kinh sách phối hợp với Giáo Trình ngay trong sát na của việc nghiên cứu.
  4. Ghi xuống tập vở một cách đầy đủ ngay trong sát na vị Giáo Thọ đang thực hiện việc giảng dạy.

Tỳ Khưu Visuddhi Guttajayo

Chùa Sróy Thong – Đâu Suất Đà – Bangkok

5 Tháng Mười Hai P.L. 2527

---------------00000--------------

 

LỜI  MỞ  ĐẦU

(Trưởng Lão Pháp Sư Saddhamma Jotika Dhammācariya)

 

Vattukāmo ahaṃ ajja                Paccayākāravaṇṇanaṃ

Patiṭṭhaṃ nādhigacchāmi           Ajjhogāḷhova sāgaraṃ

Sāsanaṃ panidaṃ nānā             Desanānayamaṇḍitaṃ

Pubbācariyamaggo ca                Abbocchinno pavattati

Yasmā tasmā tadubhayaṃ          Sannissāyatthavaṇṇanaṃ

Ᾱrabhissāmi etassa                     Taṃ suṇātha samāhitā.

Bây giờ, Bần Đạo có sở nguyện sẽ đề cập đến việc miêu tả Pháp Liên Quan Tương Sinh một cách đầy đủ chi tiết; tuy nhiên Trí Tuệ của Bần Đạo đã định liệu rằng duy chỉ có một mình thì sẽ không thể nào thực hiện một cách suôn sẻ được, cũng giống như một nam nhân rớt ở trong biển cả đại dương, và không thể nào bám víu được ở nơi nào cả vậy. Tuy nhiên, cho dù như thế nào đi nữa thì Chánh Tạng Pāḷi mà Đức Phật đã lập ý khải thuyết một cách đặc thù vi diệu trong từng mỗi phần, gồm có Liên Quan Tương Sinh Phân Tích (Paṭiccasamuppādavibhaṅga), Phẩm Đại Duyên Tương Ưng (Nidānavaggasaṅyutta) v.v. và các Bộ Chú Giải (Atthakathā) như có Bộ Chú Giải Xua Tan Mê Mờ Giải Minh (Sam mohavinodanῑ), Bộ Chú Giải Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) v.v. và Bộ Phụ Chú Giải (Ṭῑkā) như có Bộ Minh Nghĩa Phụ Chú Giải (Vibhāvῑnῑṭῑkā), Siêu Lý Giải Minh Phụ Chú Giải (Paramatthadῑpanῑṭῑkā), Ngôn Ngữ Phụ Chú Giải (Bhāsāṭῑkā) v.v. đã được tất cả các Bậc Thầy Tổ Cổ Đức (Pubbācāriya) đề cập đến việc miêu tả ý nghĩa nội dung một khi vẫn đang hiện hữu thịnh hành và chưa mất đi. Với lý do này, Bần Đạo mới sẽ trình bày việc miêu tả ý nghĩa nội dung của Pháp Liên Quan Tương Sinh [gồm luôn cả 24 Duyên (Paccaya)Chế Định (Paññatti)] đây, với việc nương vào Chánh Tạng Pāḷi và những Bộ Chú Giải – Phụ Chú Giải ấy vậy. Chính vì thế, xin cho tất cả các Bậc Hiền Đức (Sādhujana) nên chú ý lắng nghe và nghiên cứu với Bộ Kinh này – Bộ Kinh Liên Quan Tương Sinh Minh Giải Giản Lược 24 Duyên đây – được tính là bộ Kinh thứ 13 ở trong số lượng Khóa Trình Nghiên Cứu Tạng Vô Tỷ Pháp mà Bần Đạo đã có được soạn tác cho làm thành Khóa Trình Nghiên Cứu của các Học Viên Trung Học Vô Tỷ Pháp Đệ Nhị và Giảng Viên Vô Tỷ Pháp Đệ Nhất.

Lại nữa, bộ Kinh Liên Quan Tương Sinh Minh Giải Giản Lược 24 Duyên đã được thành tựu đây, cũng do bởi nương vào Guṇavaṇṇῑ, Komesa là những vị đã hỗ trợ biên soạn trong lãnh vực thành ngữ Thái Lan; bởi do thế Bần Đạo mới xin được hoan hỷ tán thành (Anumodanā) trong Tư Tâm Sở Thiện (Kusalacetanā) ở phần lớn là của Guṇavaṇṇῑ, Komesa; xin cho Tư Tâm Sở Thiện Công Đức này hãy phát sinh đến Guṇavaṇṇῑ, Komesa cho được thành đạt ở trong sở nguyện sở cầu với mọi trường hợp của các quý vị này.

 

Icchitaṃ patthitaṃ tesaṃ           Khippameva samijjhaṇtu

Sabbe pūrentu saṅkappā            Chando paṇṇaraso yathā

Cầu xin các Quả lành mà người đã mong mỏi, cho được mau thành tựu kịp thời đến người. Cầu xin những sự suy xét chân chánh cho được tròn đủ đến người; cũng như trăng trong ngày Rằm vậy.

----------------00000----------------

 

TỪ NGỮ GIẢI THÍCH

 

  1. Việc luân chuyển trong Tiền Hữu Luân (Pubbantabhavacakka – Bánh xe luân hồi trước xoay chuyển) có như vầy:
  • Vô Minh (Avijjā) làm Nhân – Hành (Saṅkhāra) làm Quả.
  • Hành làm Nhân – Thức (Viññāṇa) làm Quả.
  • Thức làm Nhân – Danh Sắc (Nāmarūpa) làm Quả.
  • Danh Sắc làm Nhân – Lục Xứ (Saḷāyatana) làm Quả.
  • Lục Xứ làm Nhân – Xúc (Phassa) làm Quả.
  • Xúc làm Nhân – Thọ (Vedanā) làm Quả.
  • Thọ làm Nhân – Vô Minh làm Quả.

Bất luận khi nào Ái Dục khởi sinh lên bởi do nương vào Thọ làm Nhân thì ngay trong sát na ấy Vô Minh cũng cùng câu sinh với Ái Dục; chính vì thế một khi bánh xe luân hồi đã xoay đến Thọ rồi, thì mới xoay trở lại gặp Vô Minh và bắt đầu lại thêm lần nữa.

  1. Việc luân chuyển trong Hậu Hữu Luân (Aparantabhavacakka – Bánh xe luân hồi sau xoay chuyển) có như vầy:
  • Ái Dục (Taṇhā) làm Nhân – Chấp Thủ (Upādāna) làm Quả.
  • Chấp Thủ làm Nhân – Nghiệp Hữu (Kammabhava) làm Quả.
  • Nghiệp Hữu làm Nhân – Sinh (Jāti) làm Quả.
  • Lão Mại Tử Vong (Jāramaraṇa) làm Nhân – Ái Dục làm Quả.

Bất luận khi nào sự lão mại và sự cận tử lâm chung đã khởi sinh lên rồi, thì ngay thời gian đấy vị ấy thường có sự dục cầu trở lại thành trai trẻ thanh xuân, và dục cầu thọ mạng lâu dài; mà những thể loại mong cầu này đều đã là Dục Lậu (Kāmāsava), có nghĩa là chính Ái Dục ấy khởi sinh bởi do nương vào Lão Mại Tử Vong làm Nhân; chính vì thế một khi bánh xe luân hồi đã xoay đến Lão Mại Tử Vong rồi, thì mới xoay trở lại gặp Ái Dục và bắt đầu lại thêm lần nữa.  Bởi do thế mới nói rằng: “Chúng sinh già, chết, khổ sầu, Bởi do Pháp Lậu khởi đầu Vô Minh”.

Ghi chú:

  • VM: Vô Minh (Avijjā) thuộc Phiền Não (PN)
  • H: Hành (Saṅkhāra) thuộc Nghiệp Báo (NB)
  • T: Thức (Viññāṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)
  • DS: Danh Sắc (Nāmarūpa) thuộc Dị Thục Quả (Q)
  • LX: Lục Xứ (Saḷāyatana) thuộc Dị Thục Quả (Q)
  • X: Xúc (Phassa) thuộc Dị Thục Quả (Q)
  • T: Thọ (Vedanā) thuộc Dị Thục Quả (Q)
  • AD: Ái Dục (Taṇhā) thuộc Phiền Não (PN)
  • CT: Chấp Thủ (Upādāna) thuộc Phiền Não (PN)
  • NH: Nghiệp Hữu (Kammabhava) thuộc Nghiệp Báo (NB)
  • SH: Sinh Hữu (Uppattibhava) thuộc Dị Thục Quả (Q)
  • S: Sinh (Jāti) thuộc Dị Thục Quả (Q)
  • LT: Lão Tử (Jāramaraṇa) thuộc Dị Thục Quả (Q)

----------------------------00000-------------------------

 

PARAMATTHAJOTIKA – SIÊU LÝ QUANG MINH

 

NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMᾹSAMBUDDHASSA

CUNG KÍNH ĐỨC THẾ TÔN - ỨNG CÚNG – CHÁNH BIẾN TRI

 

LIÊN QUAN TƯƠNG SINH MINH GIẢI - (PAṬICCASAMUPPĀDADῙPANῙ)

VÀ 24 DUYÊN THEO GIẢN LƯỢC

PHẦN IPAṬICCASAMUPPĀDA (LIÊN QUAN TƯƠNG SINH)

 

Yesaṃ saṅkhatadhammānaṃ ye dhammāpaccayā yathā, taṃ vibhāgami hedāni pavakkhāmi yathārahaṃ.  Paṭiccasamuppādanayo, paṭṭhānanayo ceti paccayasaṅgaho duvidho veditabbo. Tattha tabbhāvabhāvibhāvākāramatto palakkhito paṭiccasamup pādanayo. Paṭṭhānanayo pana āhaccapaccayaṭṭhiti-mārabbha pavuccati.  Ubhayaṃ pana vomissetvā papañcenti ācariyā.

Nay, Tôi sẽ giảng một cách tỷ mỷ ở nơi đây, một cách thích hợp, về như thế nào một Pháp liên hệ với một Pháp khác ở trong Thế Giới Hữu Vi. Sự hữu quan trong Tổng Hợp Duyên Hệ ấy cần được hiểu biết bởi theo hai Phương Pháp:  Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh và Phương Pháp Phát Thú.  Ở đây, Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh là sự liên hệ bị chi phối bởi định luật "Cái này sinh khởi do bởi duyên vào cái kia".  Phương Pháp Phát Thú được nói đến sự hiện hữu các điều kiện liên hệ với nhau.  Các Bậc Giáo Thọ Sư đã giải thích xen lẫn cả hai Phương Pháp này.

 

Tattha avijjāpaccayā saṅkhārā.  Saṅkhāra paccayā viññāṇam.  Viññāṇa paccayā nāmarūpam.  Nāmarūpa paccayā saḷāyatanam.  Saḷāyatana paccayā phasso. Phassa paccayā vedanā. Vedanā paccayā taṇhā.  Taṇhā paccayā upādānam. Upādāna paccayā bhavo. Bhava paccayā jāti. Jāti paccayā jarāmaraṇa soka parideva dukkha domanassupāyāyā sambhavanti.  Evame tassa kevalassa dukkhakhandhassa samudayo hotῑ ti.  Ayamettha paṭiccasamuppādanayo.

Ở nơi đây, Vô Minh làm duyên Hành.  Hành làm duyên Thức.  Thức làm duyên Danh Sắc. Danh Sắc làm duyên Lục Xứ.  Lục Xứ làm duyên Xúc. Xúc làm duyên Thọ. Thọ làm duyên Ái Dục. Ái Dục làm duyên Chấp Thủ. Chấp Thủ làm duyên Hữu.  Hữu làm duyên Sinh.  Sinh làm duyên Lão Mại, Tử Vong, Sầu Muộn, Bi Ai, Khổ Đau, Ưu Thọ, Não Hại. Như vậy là sự tập khởi  toàn bộ khối Khổ Uẩn. Và đấy là Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh.

 

Tattha tayo addhā, dvādasaṅgāni, vῑsatākārā, tῑsandhi, catusaṅkhepā, tῑṇi vaṭṭāni, dve mūlāni ca veditabbāni. Kathaṃ? Avijjāsaṅkhārā atῑto addhā. Jāti jarāmaranaṃ anāgato addhā. Majjhe aṭṭha paccuppanne addhā tῑ tayo addhā. Avijjā, saṅkhārā, viññāṇaṃ, nāmarūpaṃ, saḷāyatanaṃ, phasso, vedanā, taṇhā, upādānaṃ, bhavo, jāti, jarāmaraṇanti dvādasaṅgāni. Sokādivacanaṃ panettha nissandaphala  nidassanaṃ.

Ở nơi đây cũng cần nên hiểu biết rằng có 3 Thời Kỳ, 12 Chi Phần, 20 Hành Tướng, 3 Liên Kết, 4 Tóm Lược, 3 Luân Hồi, và 2 Căn Nguyên.  Như thế nào ? Vô Minh, Hành thì thuộc về Thời Kỳ Quá Khứ; Sinh, Lão Mại, Tử Vong thì thuộc về Thời Kỳ Vị Lai; tám Pháp ở khoảng giữa thì thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại.  Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu, Sinh, Lão Mại, Tử Vong là 12 Chi Phần.  Từ ngữ Sầu Bi v.v...được nêu lên như là đẳng lưu quả của Sinh.

 

Avijjāsaṅkhāraggahaṇena panettha taṇhūpādānabhavāpi gahitā bhavanti. Tathà taṇhūpādānabhavaggahaṇena ca avijjāsaṅkhārā, jātijarāmaraṇaggahanena ca viññāṇā diphalapañcakameva gahitanti katvā.

Atῑte hetavo pañca, idāni phalapañcakam. Idāni hetavo pañca, āyatiṃ phala pañcakanti.

Vῑsatākārā, tisandhi catusaṅkhepā ca bhavanti.  Avijjā taṇhūpādānā ca kilesavaṭṭaṃ; kammabhavasaṅkhāto; bhavekadeso saṅkhārā ca kammavattaṃ; upapattibhavasaṅkhāto bhavekadeso avasesā ca vipākavaṭṭam ti tῑṇi vaṭṭāni. Avijjātaṇhāvasena dve mūlāni ca veditabbāni.  Tesameva ca mūlānaṃ nirodhena nirujjhati.  Jarāmaraṇamucchāya pῑḷitānamabhinhaso.   Ᾱsavānaṃ samuppādā avijjā ca pavaḍḍhati. 

Vaṭṭamābandhamiccevaṃ tedhūmakamanādikaṃ.  Paṭiccasamuppādo ti paṭṭha pesi mahāmuni.

Nơi đây, khi đề cập đến Vô Minh và Hành thì Ái Dục, Chấp Thủ và Hữu cũng được hàm ý ở trong đó. Cùng thế ấy, khi đề cập đến Ái Dục, Chấp Thủ và Hữu thì Vô Minh và Hành cũng được hàm ý ở trong đó.

Như vậy có năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Quá Khứ, năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại, năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại và năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Vị Lai.

Vô Minh, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu thì thuộc về Phiền Não Luân; một phần của Hữu được gọi là Nghiệp Hữu và Hành thì thuộc về Nghiệp Báo Luân; một phần còn lại của Hữu được gọi là Sinh Hữu thì thuộc về Dị Thục Quả Luân. Như vậy cũng cần nên hiểu biết rằng có ba Vòng Luân Hồi; Vô Minh và Ái Dục là hai Căn Nguyên. Sự tận diệt những Căn Nguyên ấy thì sự Luân Hồi được chấm dứt.  Vô Minh được phát sinh và tiếp diễn tăng trưởng là do bởi các Lậu Hoặc, và luôn luôn bị bức bách do bởi Lão Mại Tử Vong.

Như vậy vị Đại Tu Sĩ đã trình bày giải thích tình trạng rối rắm của những kiếp sống vô thủy và hệ lụy này ở trong ba Cõi Giới, dưới hình thức định lý Liên Quan Tương Sinh.

-----------------00000------------------

 

PHẦN PĀLI TỔNG HỢP NỘI DUNG VÔ TỶ PHÁP VÀ LỜI DỊCH NGHĨA

CHƯƠNG THỨ VIII – TỔNG HỢP PHÂN TÍCH DUYÊN HỆ

 

LỜI THỆ NGUYỆN CỦA GIÁO THỌ SƯ ANURUDDHĀCARIYA

 

  1. Yesaṃ saṅkhatadhammānaṃ Ye dhammāpaccayā yathā

    Taṃ vibhāgami hedāni                     Pavakkhāmi yathārahaṃ

Nay, Tôi sẽ giảng một cách tỷ mỷ ở nơi đây, một cách thích hợp, về như thế nào một Pháp liên hệ với một Pháp khác ở trong Thế Giới Hữu Vi.

Những thể loại Pháp nào, tức là Pháp Hữu Vi (Saṅkhatadhamma), Pháp Vô Vi (Asaṅkhatadhamma) Pháp Chế Định (Paññattidhamma) làm thành Năng Duyên (Paccaya) giúp đỡ ủng hộ đối với những thể loại Pháp Sở Duyên (Paccayuppanna) nào, tức là Pháp Hữu Vi với những hành trạng khác biệt nhau, như có Mãnh Lực Nhân (Hetusatti), Mãnh Lực Cảnh (Ārammaṇasatti) v.v. Tại nơi đây, trong Tổng Hợp Phân Tích Duyên Hệ (Paccayasaṅgahavibhāgo) này, thuận theo điều kiện thích hợp mà Bần Đạo sẽ trình bày từng mỗi phân loại khác biệt nhau từ nơi mãnh lực hiệp trợ của những thể loại Năng Duyên và những Sở Duyên ấy vậy.

[Chú thích: Từ ngữ Saṅkhatadhamma (Pháp Hữu Vi) còn được gọi là “Pháp được cấu tạo”, là những Pháp không tự tiện hiện hữu mà cần phải được khởi sinh tùy thuộc những yếu tố hoặc điều kiện. Các Pháp Hữu Vi bao gồm tất cả các Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp; và đã có được miêu tả trong Chương thứ I, II của Bộ sách Chú Giải Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp]

 

TRÌNH BÀY HAI PHƯƠNG PHÁP VÀ SỰ KHÁC BIỆT NHAU

GIỮA CẢ HAI PHƯƠNG PHÁP

 

  1. Paṭiccasamuppādanayo, paṭṭhānanayo ceti paccayasaṅgaho duvidho veditabbo. Tattha tabbhāvabhāvibhāvākāramatto palakkhito paṭiccasamuppāda nayo. Paṭṭhānanayo pana āhaccapaccayaṭṭhitimārabbha pavuccati. Ubhayaṃ pana vomisse tvā papañcenti ācariyā  – Sự liên hệ Tổng Hợp Duyên Hệ ấy cần được hiểu theo hai Phương Pháp:  Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh và Phương Pháp Phát Thú. Ở đây, Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh là sự liên hệ bị chi phối bởi định luật "Cái này sinh khởi do bởi duyên vào cái kia".  Phương Pháp Phát Thú được nói đến sự hiện hữu các điều kiện liên hệ với nhau.  Các bậc Giáo Thọ Sư đã giải thích xen lẫn cả hai Phương Pháp này.

Tất cả các bậc Học Giả nên hiểu biết rằng Tổng Hợp Duyên Hệ đây có hai Phương Pháp, đó là:

1/. Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh (Paṭiccasamuppādanayo),

2/. Phương Pháp Phát Thú (Paṭṭhānanayo).

Cả hai Phương Pháp đấy, Đức Thế Tôn đã lập ý chỉ hạn định bởi theo hành trạng hiện hành Pháp Sở Duyên gồm có Hành v.v. có thực tính sinh khởi theo lẽ thường nhiên bởi do nương vào việc sinh khởi của các Pháp Năng Duyên có Vô Minh v.v. và được gọi tên là Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh.

Bên phần Phương Pháp Phát Thú thì Đức Thế Tôn đã lập ý đề cập đến mãnh lực Duyên ở phần đặc biệt.  Còn tất cả các Ngài Chú Giải Sư đã kết hợp cả hai Phương Pháp này vào với nhau để trình bày một cách mãn túc.

[Chú thích:  Từ ngữ Paṭiccasamuppāda được dịch nghĩa là Liên Quan Tương Sinh, hoặc còn gọi Pháp Tùy Thuộc Phát Sinh, hoặc Thập Nhị Duyên Khởi.  Khi chiết tự ra có được hai từ ngữ, ấy là: Paṭicca + Samuppāda, Paṭicca dịch nghĩa “do bởi, bởi vì, có liên quan”; Samuppāda dịch nghĩa “nổi lên, mọc lên, khởi sinh, được sản sinh”. Tại đây lập ý nói đến mối liên quan giữa 12 Pháp được gọi là Năng Duyên (Paccaya) Sở Duyên (Pacca yuppanna).  Hệ thống giảng giải 12 Pháp liên quan với nhau từ nơi Liên Quan Tương Sinh được gọi tên Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh (Paṭiccasamuppādanayo) hoặc còn gọi Định Luật Phát Sinh Tùy Thuộc].

 

TRÌNH BÀY VIỆC HIỆP TRỢ GIỮA PHÁP NĂNG DUYÊN VÀ PHÁP SỞ DUYÊN THỂ THEO PHƯƠNG PHÁP LIÊN QUAN TƯƠNG SINH

 

  1. Tattha avjjāpaccayā saṅkhārā. Saṅkhāra paccayā viññāṇam. Viññāṇa paccayā nāmarūpam.   Nāmarūpa paccayā saḷāyatanam.  Saḷāyatana paccayā phasso. Phassa paccayā vedanā. Vedanā paccayā taṇhā.  Taṇhā paccayā upādānam.  Upādāna paccayā bhavo.  Bhava paccayā jāti.  Jāti paccayā jarāmaraṇa soka parideva dukkha domanassupāyāyā sambhavanti.  Evame tassa kevalassa dukkhakhandhassa samudayo hotῑti - Ở nơi đây, Vô Minh làm duyên Hành. Hành làm duyên Thức. Thức làm duyên Danh Sắc. Danh Sắc làm duyên Lục Xứ.  Lục Xứ làm duyên Xúc. Xúc làm duyên Thọ. Thọ làm duyên Ái Dục. Ái Dục làm duyên Chấp Thủ. Chấp Thủ làm duyên Hữu. Hữu làm duyên Sinh. Sinh làm duyên Lão Mại, Tử Vong, Sầu Muộn, Bi Ai, Khổ Đau, Ưu Thọ, Não Hại khởi sinh. Như vậy là sự tập khởi  toàn bộ khối Khổ Uẩn.

Trong cả hai Phương Pháp đấy, thì sự hiện hành của Pháp Năng Duyên và Pháp Sở Duyên bởi theo Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh có được như vầy:

Cả ba gồm Phúc Hành (Puññābhisaṅkhāra), Phi Phúc Hành (Apuññābhisaṅkhā ra), Bất Động Hành (Aneñjābhisaṅkhāra) đây, hiện khởi lên bởi do nương vào Vô Minh, tức là sự bất liễu tri trong Tứ Đế, sự bất liễu tri trong Quá Khứ (Pubbanta), sự bất liễu tri trong Vị Lai (Aparanta), sự bất tri trong Quá KhứVị Lai (Pubbantāparanta), sự bất liễu tri trong Liên Quan Tương Sinh; kết hợp cả tám điều làm thành Nhân.

Thức (Viññāṇa) tức là 32 Tâm Dị Thục Quả Hiệp Thế hiện khởi lên bởi do nương vào Tam Hành làm thành Nhân.

Danh Sắc (Nāmarūpa) tức là Tâm Sở phối hợp với Tâm Dị Thục Quả Hiệp Thế và Sắc Nghiệp Lực hiện khởi lên bởi do nương vào Thức đó là Thức Thiện Nghiệp Lực (Kusalakammaviññāṇa), Thức Bất Thiện Nghiệp Lực (Akusalakammaviñnaṇa) trong các kiếp sống trước trước và Thức Dị Thục Quả trong kiếp sống này làm thành Nhân.

Lục Xứ (Saḷayatana) tức là Lục Nội Bộ Xứ (Ajjhatikāyatana) có Nhãn Xứ v.v. hiện khởi lên bởi do nương vào Danh Sắc làm thành Nhân.

Lục Xúc (Phassa) tức là có Nhãn Xúc (Cakkhusamphassa) v.v. hiện khởi lên bởi do nương vào Lục Nội Bộ Xứ làm thành Nhân.

Lục Thọ (Vedanā) tức là Nhãn Xúc Thọ (Cakkhusamphassajāvedanā) v.v. hiện khởi lên bởi do nương vào Lục Xúc làm thành Nhân.

Lục Ái Dục (Taṇhā) hoặc 108 Ái Dục là tính theo toàn bộ, có Sắc Ái Dục (Rūpa taṇhā) v.v. hiện khởi lên bởi do nương vào Lục Thọ làm thành Nhân.

Lục Chấp Thủ (Upādāna) Dục Thủ (Kāmupādāna) v.v. hiện khởi lên bởi do nương vào Lục hoặc 108 Ái Dục làm thành Nhân.

Hữu (Bhava) tức là cả hai Nghiệp Hữu (Kammabhava) Sinh Hữu (Uppatti bhava) hiện khởi lên bởi do nương vào Tứ Chấp Thủ làm thành Nhân.

Sinh (Jāti) tức là sự sinh khởi của Tâm Dị Thục Quả Hiệp Thế, Tâm Sở và Sắc Nghiệp Lực hiện khởi lên bởi do nương vào Nghiệp Hữu làm thành Nhân.

Lão Mại (Jarā), Tử Vong (Maraṇa) Sầu Muộn (Soka), Bi Ai (Parideva), Khổ Đau (Dukkha), Ưu Thọ (Domanassa), Não Hại (Upāyāsa); cả bảy điều này hiện khởi lên bởi do nương vào Sinh làm thành Nhân.

Như vậy sự sinh khởi toàn bộ tất cả các Khổ Uẩn đây, là bởi do nương vào những Năng Duyên có Vô Minh v.v. như đã được đề cập đến ở tại đây.

Ayamettha paṭiccasamuppādanayo - Và đấy là Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh.  Thể theo như đã vừa được đề cập, đấy là Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh trong Tổng Hợp Duyên Hệ này vậy.

 

PHÂN TÍCH LIÊN QUAN TƯƠNG SINH THỂ THEO

NHỮNG TỪNG PHƯƠNG PHÁP CÓ THỜI KỲ (ADDHĀ) v.v.

 

  1. Tattha tayo addhā, dvādasaṅgāni, vῑsatākārā, tῑsandhi, catusaṅkhepā, tῑṇi vaṭṭāni, dve mūlāni ca veditabbāni - Ở nơi đây cũng cần nên hiểu biết rằng có 3 Thời Kỳ, 12 Chi Phần, 20 Hành Tướng, 3 Liên Kết, 4 Tóm Lược, 3 Luân Hồi, và 2 Căn Nguyên.

Trong Pháp Liên Quan Tương Sinh đấy, tất cả các bậc Học Giả nên hiểu biết đến Tam Thời Kỳ (Addhā 3), Thập Nhị Chi Phần (Aṅga 12), Nhị Thập Hành Tướng (Ākāra 20), Tam Liên Kết (Sandhi 3 – ba Sự Nối Tiếp Nhau), Tứ Tóm Lược (Saṅkhepa 4), Tam Luân Hồi (Vaṭṭa 3), Nhị Căn Nguyên (Mūla 2).

 

TAM THỜI KỲ (ADDHĀ 3)

 

  1. Kathaṃ? Avijjāsaṅkhārā atῑto addhā.  Jāti jarāmaranaṃ anāgato addhā.   Majjhe aṭṭha paccuppanne addhā tῑ tayo addhā - Như thế nào ?   Vô Minh, Hành thì thuộc về Thời Kỳ Quá Khứ; Sinh, Lão Mại Tử Vong thì thuộc về Thời Kỳ Vị Lai;  tám Pháp ở khoảng giữa thì thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại.

Nên được hiểu biết như thế nào ?  Nên hiểu biết Tam Thời Kỳ như vầy, là:

+ Cả hai gồm Vô Minh và Hành đây thuộc về Thời Kỳ Quá Khứ; tức là Pháp đã sinh khởi trong các kiếp sống trước trước.

+ Cả ba gồm Sinh, Lão Mại, Tử Vong đây thuộc về Thời Kỳ Vị Lai; tức là Pháp sinh khởi trong kiếp sống sau.

+ Cả tám Chi Pháp ở trong khoảng giữa, đó là: Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Ái Dục, Chấp Thủ, Dục Hữu; với những thể loại này thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại, tức là Pháp sinh ngay trong kiếp sống này.

 

THẬP NHỊ CHI PHẦN (AṄGA)

 

  1. Avijjā, saṅkhārā, viññāṇaṃ, nāmarūpaṃ, saḷāyatanaṃ, phasso, vedanā, taṇhā, upādānaṃ, bhavo, jāti, jarāmaraṇanti dvādasaṅgāni - Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu, Sinh, Lão Mại, Tử Vong là 12 Chi Phần. Nên hiểu biết 12 chi Phần như vầy: Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu, Sinh, Lão Mại Tử Vong.

 

  1. Sokādivacanaṃ panettha nissandaphalanidassanaṃ - Từ ngữ Sầu Bi v.v... được nêu lên như là đẳng lưu quả của Sinh.

Trong phần Pāḷi Liên Quan Tương Sinh đây, từ ngữ Sầu Muộn (Soka) v.v. bao hàm ý nghĩa là Sầu Muộn (Soka), Bi Ai (Parideva), Khổ Đau (Dukkha), Ưu Thọ (Domanassa), Não Hại (Upāyāsa); và những thể loại này trình bày cho được biết đến quả báo làm thành Đẳng Lưu Quả (Nissandaphala); tức là chỉ làm thành quả báo nối tiếp từ ở nơi Sinh thôi, và chẳng phải là một Chi Phần riêng biệt.

 

NHỊ THẬP HÀNH TƯỚNG (ĀKĀRA 20), TAM LIÊN KẾT (SANDHI 3),

TỨ TÓM LƯỢC (SAṄKHEPA 4)

 

  1. Avijjāsaṅkhāraggahaṇena panettha taṇhūpādānabhavāpi gahitā bhavanti. Tathā taṇhūpādānabhavaggahaṇena ca avijjāsaṅkhārā, jāti jarāmaraṇaggahanena ca viññāṇādiphalapañcakameva gahitanti katvā.

Atῑte hetavo  pañca             Idāni phalapañcakam

Idāni hetavo pañca              Ᾱyatiṃ  phalapañcakanti

Vῑsatākārā tisandhi             Catusaṅkhepā ca bhavanti.

Nơi đây, khi đề cập đến Vô Minh và Hành thì Ái Dục, Chấp Thủ và Hữu cũng được hàm ý ở trong đó. Cùng thế ấy, khi đề cập đến Ái Dục, Chấp Thủ và Hữu thì Vô Minh và Hành cũng được hàm ý ở trong đó.  Như vậy có năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Quá Khứ, năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại, năm Nhân thuộc về Thời Kỳ Hiện Tại và năm Dị Thục Quả thuộc về Thời Kỳ Vị Lai.

Đối với trong Tam Thời Kỳ, bằng cách đã đề cập đến Vô Minh và Hành để nêu lên trình bày, thì ngay cả ba Ái Dục, Chấp Thủ và Nghiệp Hữu cũng nên tính vào trong Thời Kỳ Quá Khứ.  Cũng tương tự, bằng cách đã đề cập đến Ái Dục, Chấp Thủ, và Nghiệp Hữu để nêu lên trình bày, thì cả hai Vô Minh và Hành cũng nên tính vào trong Thời Kỳ Hiện Tại.  Bằng cách đã đề cập đến Sinh, Lão Mại, Tử Vong để nêu lên trình bày, thì cả năm thể loại quả báo gồm có Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ cũng nên tính vào trong Thời Kỳ Vị Lai.

 

BỞI DO THẾ, NHỊ THẬP HÀNH TƯỚNG, TAM LIÊN KẾT, TỨ TÓM LƯỢC

MỚI HIỆN HÀNH NHƯ VẦY:

 

+ Có năm Nhân trong kiếp sống Quá Khứ, đó là: Vô Minh, Hành, Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu.

+ Có năm Quả trong kiếp sống Hiện Tại, đó là: Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ.

+ Có năm Nhân trong kiếp sống Hiện Tại, đó là: Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, Vô Minh, Hành.

+ Có năm Quả trong kiếp sống Vị Lai, đó là: Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ.

 

TAM LUÂN HỒI (VAṬṬA), NHỊ CĂN NGUYÊN (MŪLA)

 

  1. Avijjā taṇhūpādānā ca kilesavaṭṭaṃ; Kammabhavasaṅkhāto; bhavekadeso saṅkhārā ca kammavattaṃ; upapattibhavasaṅkhāto bhavekadeso avasesā ca vipākavaṭṭam ti tῑni vaṭṭāni. Avijjātaṇhāvasena dve mūlāni ca veditabbāni - Vô Minh, Ái Dục, Chấp Thủ, Hữu thì thuộc về Phiền Não Luân; một phần của Hữu được gọi là Nghiệp Hữu và Hành thì thuộc về Nghiệp Báo Luân; phần còn lại của Hữu được gọi là Sinh Hữu thì thuộc về Dị Thục Quả Luân. Như vậy cũng cần nên hiểu biết rằng có ba Vòng Luân Hồi; Vô Minh và Ái Dục là 2 Căn Nguyên.

Đối với Tam Luân Hồi thì tất cả các bậc Học Giả nên hiểu biết như vầy:

Vô Minh, Ái Dục và Chấp Thủ, với những thể loại này thuộc về Phiền Não Luân (Kilesavaṭṭa).  Một phần của Hữu, tức là Nghiệp Hữu (Kammabhava) và Hành, với những thể loại này thuộc về Nghiệp Báo Luân (Kammavaṭṭa).  Một phần của Hữu, tức là Sinh Hữu (Uppattibhava) và Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ, Sinh, Lão Mại Tử Vong, với những thể loại còn lại này thuộc về Dị Thục Quả Luân (Vipākavaṭṭa). Còn Nhị Căn Nguyên, tất cả các bậc Học Giả nên hiểu biết bởi theo phân loại từ nơi Vô Minh và Ái Dục.

 

TRÌNH BÀY VIỆC TẬN DIỆT TỪ CẢ TAM LUÂN HỒI

VÀ XUẤT SINH XỨ CỦA VÔ MINH

 

  1. Tesameva ca mūlānaṃ nirodhena nirujjhati. Jarāmaraṇamucchāya pῑḷitā namabhinhaso.   Āsavānaṃ samuppādà avijjā ca pavaḍḍhati - Sự tận diệt những Căn Nguyên ấy thì sự Luân Hồi được chấm dứt. Vô Minh được phát sinh và tiếp diễn tăng trưởng là do bởi các Lậu Hoặc, và luôn luôn bị bức bách do bởi Lão Mại - Tử Vong.

Khi cả Tam Luân Nhị Căn đã tận diệt không còn dư sót với mãnh lực từ nơi Đạo Vô Sinh (Arahattamagga), thế rồi việc luân chuyển tuần hoàn từ nơi Liên Quan Tương Sinh, tức là cả Tam Luân Hồi cũng tức thì ắt hẳn cùng diệt tắt. Vô Minh có được sinh khởi là cũng do nương vào việc sinh khởi từ nơi Pháp Lậu Hoặc hiện hữu trong bản tánh tất cả Chúng Hữu Tình; và con người thường luôn bị bức bách hành hạ với sự lão mại, sự tử vong, và Pháp làm thành tác nhân từ nơi sự si mê lầm lạc, tức là Sầu Bi Khổ Ưu Não ấy vậy.

 

TRÌNH BÀY KỆ NGÔN CUỐI CÙNG

 

Vaṭṭamābandhamiccevaṃ           Tedhūmakamanādikaṃ

Paṭiccasamuppādo ti                  Paṭṭhapesi mahāmuni.

Như vậy vị Đại Tu Sĩ đã trình bày giải thích tình trạng rối rắm của những kiếp sống vô thủy và hệ lụy này trong ba Cõi Giới, dưới hình thức định lý Liên Quan Tương Sinh.

Theo như Phương Pháp đã vừa được đề cập đến, thì việc luân chuyển tuần hoàn của cả Tam Luân Hồi đã thúc phược với nhau không gián đoạn, và sinh trú trong cả Tam Cõi Giới; như vậy đích thị chính là Pháp chủng tiền tiền vô thủy mà Bậc Đại Tu Sĩ đã thường luôn khải thuyết định đặt đấy là Liên Quan Tương Sinh.

 

Kết Thúc Phần Pāḷi Và Lời Dịch Nghĩa Trong Liên Quan Tương Sinh

-------------------------------00000------------------------------

 

Tiếp theo đây sẽ tuần tự giải thích ý nghĩa theo chủ đề đã có trình bày để ở phía trên, như sau: Chương thứ Tám đã được gọi tên Tổng Hợp Phân Tích Duyên Hệ (Paccaya saṅgahavibhāgo) đấy, là cũng do bởi Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya đã trình bày tập hợp hết tất cả các Pháp làm thành Năng Duyên và Sở Duyên thể theo từ nơi Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh (Paṭiccasamuppāda) và từ ở nơi Phương Pháp Phát Thú (Paṭṭhāna) hiện hữu trong Chương này; chính vì thế Chương này mới được gọi tên Tổng Hợp Phân Tích Duyên Hệ.  Lại nữa, tất cả Pháp làm thành Năng Duyên đã có trình bày trong Liên Quan Tương Sinh đấy, đều toàn là Pháp Siêu Lý (Paramattha) và chẳng có Pháp Chế Định (Paññatti) nào pha trộn lẫn vào được. Còn Pháp làm thành Năng Duyên đã có trình bày trong Phát Thú đấy, có cả Siêu Lý và Chế Định.  Với lý do này, mà Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya mới trình bày các Pháp Chế Định và đã đặt để ở trong phần cuối cùng của Chương thứ Tám này. Đối với Pháp làm thành Sở Duyên thì đơn nhất chỉ có một Pháp Siêu Lý ở cả hai Phương Cách.

Từ ngữ Paccaya hoặc là Năng Duyên, có được ý nghĩa làm thành tác nhân của quả báo liên quan với các tác nhân đấy. Từ ngữ Paccayuppanna hoặc là Sở Duyên, có được ý nghĩa làm thành quả báo sinh khởi bởi do nương vào các Pháp làm thành tác nhân đấy. Tóm lại, Năng Duyên tức là Pháp làm thành Nhân.  Sở Duyên tức là Pháp làm thành Quả.

 

GIẢI THÍCH TRONG KỆ NGÔN THỆ NGUYỆN (PAṬIÑÑĀ)

 

Trong kệ ngôn chỗ nói rằng Yesaṃ saṅkhatadhammānaṃ v.v. cho đến pavakkhāmi yathārahaṃ, Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya đã trình bày lên sự việc nói ra lời mở đầu, luôn cả có việc thệ nguyện hoàn thành với lời thệ nguyện của Ngài, ấy là: “Bây giờ, Bần Đạo sẽ trình bày đến việc phân tích Pháp làm thành Năng Duyên (Paccaya) giúp đỡ ủng hộ đối với những thể loại Pháp Sở Duyên (Paccayuppanna) nào, là Pháp Hữu Vi với những hành trạng khác biệt nhau, như có mãnh lực từ nơi Nhân (Hetusatti), và mãnh lực từ nơi Cảnh (Ārammaṇa satti) v.v. thuận theo điều kiện thích hợp trong Tổng Hợp Duyên Hệ (Paccayasaṅgaha), như tiếp theo đây.

Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya đã trình bày Pháp Sở Duyên bằng cách sử dụng từ ngữ nói rằng Yesaṃ saṅkhatadhammānaṃ có ý nghĩa “Pháp làm thành Sở Duyên thiết yếu một cách đơn nhất phải là Pháp Hữu Vi”, và cần nên hiểu biết là như vậy, cũng bởi vì Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya đã không có trình bày nói rằng Yesaṃ dhammānaṃ vả lại Ngài đã không có trình bày từ ngữ dhammānaṃ. Một cách đặc biệt, bằng cách đã dùng lấy từ ngữ Saṅkhata cho kết hợp vào; và Pháp Hữu Vi ấy bao gồm có Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp đã bị tạo tác do bởi các tác nhân, như có Nghiệp Lực, Tâm Thức, Quý Tiết, Vật Thực, và Cảnh.

Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya đã trình bày Pháp Năng Duyên bằng cách sử dụng từ ngữ nói rằng Ye dhammā có ý nghĩa “Pháp làm thành Năng Duyên thường bao gồm hết tất cả Pháp Hữu Vi, Pháp Vô Vi, và Pháp Chế Định bất hạn định”, và cần nên hiểu biết là như vậy, cũng bởi vì Ngài đã mặc nhiên trình bày nói rằng Ye dhammā và không có từ ngữ nào khác vào kết hợp ở nơi ấy vậy.

Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya đã trình bày đến Mãnh Lực Duyên (Paccayasatti), tức là các mãnh lực đặc biệt ở trong việc giúp đỡ ủng hộ đối với Pháp Sở Duyên của 24 Duyên, như có Mãnh Lực Nhân (Hetusatti), Mãnh Lực Cảnh (Ārammaṇasatti) v.v. bằng cách sử dụng từ ngữ Yathā mà đã có trình bày câu Chú Giải nói rằng: Yena ākārena = Yathā có ý nghĩa “với những hành trạng khác biệt nhau, như có Mãnh Lực Nhân (Hetusatti) v.v.”

Từ ngữ Paccayā dịch nghĩa “làm thành Năng Duyên giúp đỡ ủng hộ (Upakārakā).   Việc giúp đỡ ủng hộ có được hai thể loại, đó là:

  1. Giúp đỡ ủng hộ đối với Pháp Sở Duyên khi vẫn chưa sinh, cho được sinh khởi.
  2. Giúp đỡ ủng hộ đối với Pháp Sở Duyên khi đã có sinh khởi lên rồi, cho được kiên trụ và tăng trưởng lên.

Cũng tương tự như người lớn giúp đỡ ủng hộ đối với người nhỏ, thì việc giúp đỡ ủng hộ của người lớn này cũng hiện hữu ở hai thể loại, đó là:

  1. Giúp đỡ ủng hộ đối với người nhỏ khi vẫn chưa có được cơ nghiệp, cho có được kiến tạo cơ nghiệp lên.
  2. Và giúp đỡ ủng hộ đối với người nhỏ khi đã có được kiến tạo cơ nghiệp rồi; cho được bền vững lâu dài xuyên suốt và cho được tăng trưởng lên.

Câu nói rằng Taṃ vibhāgamihedāni, khi được chiết tự ra có như vầy: Taṃ + Vibhāgaṃ + Iha + Idāni. Trong câu nói rằng Taṃ vibhāgaṃ, với từ ngữ Taṃ là từ ngữ trình bày kết tập nội dung của cả ba câu, đó là: Yesaṃ ye dhammā yathā, từ ngữ Vibhāgaṃ được dịch nghĩa “các phân loại khác biệt nhau”; bởi do thế từ ngữ nói rằng Taṃ vibhāgaṃ mới được dịch nghĩa “mà các phân loại khác biệt nhau” từ nơi mãnh lực của những thể loại Pháp Năng Duyên và Pháp Sở Duyên ấy vậy.

Như có câu Chú Giải trình bày là: Vibha jῑyateti = Vibhāgo - Pháp được phân tích các thể loại, bởi do thế được gọi tên “Phân Loại”; tức là các mãnh lực của 24 Duyên. Từ ngữ Vibhāgo khi được kết hợp với từ ngữ Taṃ làm thành Trạng Từ Xác Định (Niyama kammapada) Taṃ vibhāgaṃ như đã được đề cập đến rồi vậy. Từ ngữ Iha lập ý đến “ở trong Tổng Hợp Duyên Hệ này.”  Từ ngữ Idāni dịch nghĩa “Bây giờ”, có nghĩa là “trong tuần tự tiếp nối từ nơi Tổng Hợp Tập Yếu đây”. Từ ngữ Paccakkhāmi lập ý đến “Lời Thệ Nguyện của Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya chỗ nói rằng “Bần Đạo sẽ trình bày”. Từ ngữ Yathā rahaṃ dịch nghĩa “tùy thuận theo thích hợp”, có nghĩa Giáo Thọ Sư Anuruddhācariya bảo đảm sẽ trình bày những phân loại từ nơi mãnh lực việc hiệp trợ của các Pháp Năng Duyên và Pháp Sở Duyên thể theo Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh và Phương Pháp Phát Thú tùy thuận theo điều kiện thích hợp sẽ làm được.

 

GIẢI THÍCH TRONG ĐIỀU PĀLI THỨ HAI CHỖ TRÌNH BÀY ĐẾN CẢ HAI PHƯƠNG PHÁP VÀ SỰ KHÁC BIỆT NHAU TỪ CẢ HAI PHƯƠNG PHÁP ẤY

 

Kể từ phần Pāḷi chỗ nói rằng Paṭiccasamuppādanayo, paṭṭhānanayo ceti paccaya saṅgaho duvidho veditabbo - Sự hữu quan trong Tổng Hợp Duyên Hệ ấy cần được hiểu theo hai phương pháp:  Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh và Phương Pháp Phát Thú; là việc trình bày cho được biết rằng trong Tổng Hợp Duyên Hệ đây hiện hữu hai Phương Pháp hiệp trợ, đó là một Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh và một Phương Pháp Phát Thú.

Kể từ phần Pāḷi chỗ nói rằng Tattha tabbhāvabhāvibhāvākāramatto palakkhito paṭiccasamuppādanayo.  Paṭṭhānanayo pana āhaccapaccayaṭṭhitimārabbha pavuccati - Ở đây, Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh là sự liên hệ bị chi phối bởi định luật "Cái này sinh khởi do bởi duyên vào cái kia".  Phương Pháp Phát Thú được nói đến sự hiện hữu các điều kiện liên hệ với nhau; là việc trình bày cho được biết đến sự khác biệt nhau giữa cả hai Phương Pháp, và đó chính là việc trình bày đến Nhân Quả.

+  Thể theo Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh thì chỉ duy nhất trình bày cho được biết rằng tất cả Chúng Hữu Tình hiện bày trong Thế Gian này đều là quả báo nương sinh từ nơi Pháp làm thành Tác Nhân hết cả thẩy, để rồi sẽ tự sinh khởi lên.  Hoặc chẳng có đấng tạo hóa nào và do chẳng có nương vào Pháp làm thành Tác Nhân để làm cho sinh khởi lên được. Có nghĩa là một khi đã hội đủ Nhân Duyên rồi thì quả báo ắt hẳn hiện khởi là theo lẽ thường nhiên. Tuy nhiên đã không có trình bày đến mãnh lực của những Duyên ấy, tức là việc giúp đỡ ủng hộ của những Duyên ấy, đã được hiện hành do bởi theo mãnh lực của Nhân (Hetu) cũng có, của Cảnh (Ārammaṇa) cũng có, của Trưởng (Ᾱdhipati) cũng có v.v.

Như có câu Chú Giải trình bày rằng: Paccaya sāmaggῑ paṭicca samaṃ saha ca paccayuppannadham me uppādetῑti = Paṭiccasamuppādo - Bất luận từ nhóm Pháp Nhân nào, có Vô Minh v.v. cho đến Sinh, thường làm cho Pháp Quả có Hành v.v. cho đến Não Hại liên tục đều đặn cùng khởi sinh lên bởi do nương vào sự nhất tề từ nơi Duyên hữu quan với các Pháp Nhân ấy; chính vì thế nhóm Pháp Nhân ấy mới được gọi tên là Liên Quan Tương Sinh. Một trường hợp khác nữa: Paṭicca samaṃ saha ca upajjati etasmāti = Paṭicca samuppādo - Pháp Quả có Hành v.v. một khi đã được nương vào việc cùng nhau tựu hội từ nơi Duyên rồi, và thường liên tục đều đặn cùng khởi sinh lên bởi do nương vào các Pháp Nhân có Vô Minh v.v.; chính vì thế những thể loại Pháp Nhân có Vô Minh v.v. mới được gọi tên Liên Quan Tương Sinh; tức là Vô Minh v.v. cho đến Sinh.

Câu Chú Giải từ ngữ Naya: Nīyati ñāyatῑti = Nayo - Việc trình bày cần phải hiểu biết do bởi các bậc Hiền Trí (Paṇḍita); chính vì thế mới được gọi tên Phương Pháp. Paṭiccasa muppāde desito nayo = Paṭiccasamuppādanayo - Phương Pháp Đức Phật lập ý khải thuyết trong Liên Quan Tương Sinh, được gọi tên Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh.

+  Còn việc trình bày Nhân Quả thể theo Phương Pháp từ nơi Phát Thú, đó là việc trình bày cho được biết rằng tất cả các sự vật hữu sinh mạng và phi sinh mạng hiện bày trong Thế Gian này, đều là Nhân Quả liên quan với nhau một cách thích hợp. Chẳng thể nào có việc hiện khởi lên mà không có liên quan với Nhân Quả được; luôn cả có việc trình bày đến mãnh lực những Duyên ấy, tức là việc giúp đỡ ủng hộ của những Duyên ấy, đã được hiện hành do bởi theo mãnh lực của Nhân (Hetu) cũng có, của Cảnh (Ārammaṇa) cũng có, của Trưởng (Ādhipati) cũng có, v.v.

Như có câu Chú Giải trình bày rằng: Nānappakārāni ṭhànāni paccayā etathāti = Paṭṭhānaṃ - Tất cả các Duyên làm thành tác nhân mà có mãnh lực do bởi những thể loại khác nhau, như có mãnh lực Nhân, mãnh lực Cảnh, v.v. hiện hữu trong kinh điển này; chính vì thế quyển kinh điển này mới được gọi tên Phát Thú.  Tức là quyển kinh điển trình bày đến 24 Duyên.  Paṭṭhāne desito nayo = Paṭṭhānanayo - Phương Pháp Đức Phật lập ý khải thuyết trong Phát Thú, được gọi tên Phương Pháp Phát Thú.

Kể từ phần Pāḷi chỗ nói rằng Ubhayaṃ pana vomissetvā papañcenti ācariyā - Các bậc Giáo Thọ Sư đã giải thích xen lẫn hai Pháp này, có nội dung lập ý đến việc trình bày Liên Quan Tương Sinh của Ngài Chú Giải Sư đã có trình bày trong Bộ Chú Giải Xua Tan Mê Mờ (Sammohavinodanῑ Atthakathā) bằng cách rút lấy mãnh lực của các Duyên ấy kết hợp lại để trình bày; chẳng hạn như đã trình bày rằng:

+  Trong sự việc Vô Minh làm Nhân cho sinh khởi Phúc Hành có được hai mãnh lực Duyên, đó là: 1/. Cảnh Duyên (Ārammaṇapaccaya), 2/. Thường Cận Y Duyên (Pakatū panissayapaccaya).

+  Vô Minh làm Năng Duyên giúp đỡ ủng hộ đối với Phi Phúc Hành có được 15 mãnh lực Duyên, đó là: 1/. Nhân Duyên (Hetupaccaya), 2/. Cảnh Duyên (Ārammaṇa paccaya), 3/. Trưởng Duyên (Adhipatipaccaya), 4/. Vô Gián Duyên (Anantarapaccaya), 5/. Đẳng Vô Gián Duyên (Samantarapaccaya), 6/. Câu Sinh Duyên (Sahajātapaccaya), 7/. Hỗ Tương Duyên (Aññmaññapaccaya), 8/. Y Chỉ Duyên (Nissayapaccaya), 9/. Cận Y Duyên (Upanissayapaccaya), 10/. Trùng Dụng Duyên (Āsevanapaccaya), 11/. Tương Ưng Duyên (Sampayuttapaccaya), 12/. Hiện Hữu Duyên (Atthipaccaya), 13/. Vô Hữu Duyên (Natthipaccaya), 14/. Ly Khứ Duyên (Vigatapaccaya), 15/. Bất Ly Duyên (Avigatapaccaya).

+  Vô Minh làm Năng Duyên giúp đỡ ủng hộ đối với Bất Động Hành có được một mãnh lực Duyên, đó là: Thường Cận Y Duyên (Pakatūpanissayapaccaya).

+  Danh Sắc hiện hành bởi theo Liên Quan Tương Sinh, một khi phân tích Pháp làm thành Nhân, làm thành Quả được gọi tên như vầy, là:

- Pháp làm thành Nhân, tức là Vô Minh v.v. cho đến Sinh; khi kết hợp những 11 thể loại này lại thì gọi tên là Pháp Năng Duyên Liên Quan Tương Sinh.

- Pháp làm thành Quả, tức là Hành v.v. cho đến Lão Mại Tử Vong; khi kết hợp những 11 thể loại này lại thì gọi tên là Pháp Sở Duyên Liên Quan Tương Sinh.

Về việc trình bày câu Chú Giải từ ngữ Liên Quan Tương Sinh đã có trình bày rồi, và đó là lập ý chỉ lấy Pháp làm thành Nhân.

Nếu sẽ trình bày cho có được Pháp làm thành Pháp Quả có được như vầy, là: Paccayaṃ paṭiccasamuppajjatῑti = Paṭiccasamuppādo - Pháp nào thường sinh khởi bởi do Năng Duyên, chính vì thế Pháp ấy mới được gọi tên Liên Quan Tương Sinh.  Tức là Pháp làm thành Quả có Hành, v.v. cho đến Lão Mại Tử Vong.  

Một trường hợp khác nữa: Samuppajjanaṃ = Samuppādo - Việc sinh khởi một cách tốt đẹp, tức là sinh khởi theo thứ tự lớp lang; gọi tên là Tương Sinh.

Yathāsakaṃ paccayaṃ paṭicca tena avinābhāvῑ hutvā samuppādo = Paṭicca samuppādo - Việc sinh khởi theo thứ tự lớp lang của Pháp nương vào các Năng Duyên của mình, và không có xa lìa khỏi các Năng Duyên của mình, mới được gọi tên Liên Quan Tương Sinh.  Tức là Pháp làm thành Quả có Hành v.v.

 

LỢI ÍCH ĐƯỢC ĐÓN NHẬN TỪ VIỆC LIỄU TRI DANH SẮC THEO NHÂN QUẢ QUA PHƯƠNG PHÁP LIÊN QUAN TƯƠNG SINH VÀ PHÁT THÚ

 

Trong sự việc Đức Phật lập ý trình bày sự hiện hành tất cả Chúng Hữu Tình, và sự hiện hành tất cả các sự vật phi sinh mạng đã hiện khởi lên trong Thế Gian này, là cũng do bởi nương vào Nhân Quả hữu quan với nhau qua Phương Pháp từ nơi Liên Quan Tương Sinh và Phát Thú đấy; là cũng nhằm để kỳ vọng cho tất cả Chúng Hữu Tình có được sự liễu tri, sự hiểu biết trong Nhân Quả, trong sự hiện hữu của tự bản thân mình, chỉ là Danh Sắc chỗ giả định rằng là Ta, là Người đang hiện bày đây; vả lại cũng chẳng có một đấng tạo hóa nào đã kiến tạo lên; chỉ có Nhân với Quả liên quan với nhau thể theo thực tính thôi; và chẳng có Tự Ngã, là Ta, là Người, bất luận trường hợp nào cả. Sự liễu tri, sự hiểu biết trong Danh Sắc thể theo Nhân Quả như vậy, đã là điều quan trọng để sẽ dắt dẫn bậc Trí Giả ấy được vượt thoát ra khỏi tất cả các Vòng Luân Hồi Khổ Đau, vì lẽ có khả năng đoạn lìa được Hữu Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi) Hoài Nghi (Vicikicchā) với luôn cả Thường Kiến (Sassatadiṭṭhi) Đoạn Kiến (Ucchedadiṭṭhi); vả lại Vô Hữu Kiến (Natthidiṭṭhi), Vô Nhân Kiến (Ahetuka diṭṭhi), Vô Hành Kiến (Akiriyadiṭṭhi) cũng được diệt mất vừa theo thích hợp đối với sự liễu tri của mình. Đề cập đến là sự liễu tri sinh khởi bởi do nương vào việc nghiên cứu học hỏi, việc lắng nghe, mà đã được gọi là Tuệ Văn Như Nguyện Dĩ Thường (Sutamayapaññā) thì thường có khả năng đoạn lìa được những thể loại Hữu Thân Kiến và Hoài Nghi, v.v. với việc Nhất Thời Phóng Khí (Tadaṅgapahāna), tức là nhất thời đoạn lìa trong từng mỗi sát na.  Sự liễu tri sinh khởi bởi do nương vào việc tư duy, quán sát và nghiên cứu tìm tòi Nhân Quả với tự bản thân, chỗ được gọi là Tuệ Tư Như Nguyện Dĩ Thường (Cintāmayapaññā) thường có khả năng đoạn lìa được những thể loại Hữu Thân Kiến và Hoài Nghi, v.v. với việc Giải Trừ Phóng Khí (Vikkambhanapahāna), tức là chế áp kìm hãm trong những thời gian lâu dài. Và sự liễu tri sinh khởi bởi do nương vào việc thực hành Minh Sát Tuệ (Vipassanā) thuận tùng theo Tuệ Văn hoặc Tuệ Tư, chỗ được gọi là Tuệ Tu Như Nguyện Dĩ Thường (Bhāvanāmayapaññā) thường có khả năng đoạn lìa được những thể loại Hữu Thân Kiến và Hoài Nghi, v.v. với việc Trừ Diệt Phóng Khí (Samucchedapahāna), tức là đoạn lìa được một cách kiên định.

Nếu sẽ trình bày tỷ dụ đối chiếu sự liễu tri ở trong Danh Sắc thể theo Nhân Quả như đã vừa đề cập đến, thì Tuệ Văn cũng chính là Trí Tuệ của Bậc có sự liễu tri trong Liên Quan Tương Sinh và Phát Thú bởi do nương vào việc nghiên cứu học hỏi, hoặc việc lắng nghe.           Tuệ Tư một khi theo đạo lộ của Hiệp Thế thì chính là Trí Tuệ của bậc tư duy tìm tòi, kiến tạo lên những của cải vật chất; chẳng hạn như chế tạo ra máy bay, radio điện thoại, v.v. Một khi theo đạo lộ của Giáo Pháp thì đó chính là Trí Tuệ của Bậc Chánh Đẳng Giác, Bậc Độc Giác. Tuệ Tu sinh khởi bởi do nương vào Tuệ Văn thì đó chính là Trí Tuệ của tất cả các Bậc Vô Sinh Thinh Văn Giác. Tuệ Tu sinh khởi bởi do nương vào Tuệ Tư thì đó chính là Trí Tuệ của Bậc Chánh Đẳng Giác và Bậc Độc Giác. Sự liễu tri, sự hiểu biết trong Danh Sắc thể theo Nhân Quả làm thành Tuệ Văn, Tuệ Tư và Tuệ Tu.  Những cả ba thể loại này, nếu như liệt kê vào ở trong Minh Sát Trí (Vipassanāñāṇa) thường có được hai thể loại, đó là: Tuệ Phân Biệt Danh Sắc (Nāmarūpaparicchedañāṇa) Tuệ Thủ Chấp Duyên Sinh (Paccayapariggahañāṇa). Và nếu như liệt kê vào trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cũng có được hai Thanh Tịnh, đó là: Kiến Thanh Tịnh (Diṭṭhivisuddhi) Đoạn Nghi Thanh Tịnh (Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi).

          Bậc đã có được sự hiểu biết thuần tịnh trong Liên Quan Tương Sinh và Phát Thú thường được chứng đạt đến một cách trực tiếp tầng Tuệ Thủ Chấp Duyên Sinh ấy là Đoạn Nghi Thanh Tịnh. Đối với việc chứng đạt đến Tuệ Phân Biệt Danh Sắc ấy là Kiến Thanh Tịnh, là cũng vì bậc đã được liễu tri trong Liên Quan Tương Sinh và Phát Thú ấy rồi, thiết yếu phải được liễu tri một cách rõ ràng ở trong vấn đề Danh Sắc ấy vậy. Với lý do này, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc ấy là Kiến Thanh Tịnh mới được liệt kê một cách hoàn hảo. Theo như vừa đề cập đến đây, trình bày cho được thấy rằng Bậc đã tu tập cho đến thành tựu viên mãn Bậc Thánh Nhân và đã vượt thoát ra khỏi Vòng Luân Hồi Khổ Đau, thì sẽ bất liễu tri đến sự hiện hành của Danh Sắc theo Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh hoặc Phát Thú do bởi Tu Tập Như Nguyện Dĩ Thường (Bhavanāmaya) ắt hẳn là không có vậy. Tuy nhiên Bậc đã có được sự liễu tri cả hai Phương Pháp ấy quả thật duy nhất chỉ có Bậc Chánh Đẳng Giác, và ngoài Bậc Chánh Đẳng Giác ra, còn tất cả các Bậc Thánh Nhân được tính kể từ Bậc Thất Lai trở đi cho đến Bậc Độc Giác thì thường duy nhất chỉ có liễu tri sự hiện hành của Danh Sắc do bởi Tu Tập Như Nguyện Dĩ Thường theo Phương Pháp của Liên Quan Tương Sinh thôi.  Có nghĩa là một khi hành giả tu tập và đã chứng đạt đến Tuệ Thủ Chấp Duyên Sinh v.v. cho đến Tuệ Thuận Tùng (Anulomañāṇa) thường có được liễu tri sự hiện hành của Danh Sắc làm thành Nhân làm thành Quả hữu quan với nhau thể theo Liên Quan Tương Sinh hết cả thẩy.  Tuy nhiên sự liễu tri ở khoảng giữa và có khả năng trình bày cho người khác được lắng nghe một cảch tỷ mỷ vi tế thì thiết yếu cần phải nương vào nền tảng Pháp Học (Pariyatti dhamma).  Nếu như đã khiếm khuyết nền tảng Pháp Học rồi, thì cho dù là Bậc Độc Giác đi nữa cũng không có khả năng trình bày sự hiện hành của tất cả Chúng Hữu Tình thể theo Phương Pháp từ nơi Liên Quan Tương Sinh một cách tỷ mỷ vi tế được.

 

GIẢI THÍCH VIỆC HIỆP TRỢ GIỮA NĂNG DUYÊN VÀ SỞ DUYÊN THỂ THEO PHƯƠNG PHÁP TỪ LIÊN QUAN TƯƠNG SINH MỘT CÁCH MÃN TÚC

 

  1. AVIJJĀPACCAYĀ SAṄKHĀRA  SAMBHAVANTI

(VÔ MINH LÀM DUYÊN HÀNH KHỞI SINH)

 

Cả Tam Hành thường hiện khởi lên bởi do nương vào Vô Minh làm Nhân. Từ ngữ Avijjā (Vô Minh) khi chiết tự ra có được hai từ ngữ, đó là: A + Vijjā.  A dịch nghĩa “Vô, không” hoặc “đối nghịch lại”. Vijjā dịch nghĩa “Minh, liễu tri” hoặc Trí Tuệ (Paññā).  Khi kết hợp vào nhau thì dịch nghĩa “Vô Minh, bất liễu tri”, hoặc Pháp chủng hiện hành đối nghịch với Trí Tuệ; tức là Tâm Sở Si.

Như có câu Chú Giải trình bày là: Catusaccadham maṃ vidatipākaṭaṃ karotῑti = Vijjā - Pháp chủng nào làm thành Bậc liễu minh được Tứ Thánh Đế, và thành Bậc đã làm cho Tứ Thánh Đế được hiện khởi lên; chính vì thế gọi tên Pháp chủng ấy là Minh.  Là Tâm Sở Trí Tuệ.

Vijjā paṭipakkhāti = Avijjā - Pháp chủng hiện hành đối nghịch với Trí Tuệ; chính vì thế gọi tên Pháp chủng ấy là Vô Minh.

Hoặc là: Avindiyaṃ vindatῑti = Avijjā - Pháp chủng thường có được Ác Hạnh Pháp ở nơi không đáng phải có; chính vì thế gọi tên Pháp chủng ấy là Vô Minh.

Hoặc là: Vindiyaṃ na vindatῑti = Avijjā - Pháp chủng thường không có được Thiện Hạnh Pháp ở nơi đáng phải có; chính vì thế gọi tên Pháp chủng ấy là Vô Minh.

Hoặc là: Avijjamāne javāpetῑti = Avijjā - Pháp chủng làm thành người kiến chấp sai lầm trong Pháp Chế Định, như có người nam, người nữ v.v. do bởi không có hiện bày thể theo thực tính; chính vì thế gọi tên Pháp chủng ấy là Vô Minh.

Hoặc là: Vijjamāne na javāoetῑti = Avijjā - Pháp chủng làm thành người bất liễu tri trong Pháp Siêu Lý, như có Uẩn, Xứ v.v. do bởi có hiện bày thể theo thực tính; chính vì thế gọi tên Pháp chủng ấy là Vô Minh.

Hoặc là: Viditabbaṃ aviditaṃ karotῑti = Avijjā - Pháp chủng bất liễu minh Pháp đáng được liễu tri, như có Tứ Thánh Đế v.v. chính vì thế gọi tên Pháp chủng ấy là Vô Minh. Và hết tất cả Vô Minh này đây, tức là Tâm Sở Si.

[Chú thích: Từ ngữ Avijjā dịch nghĩa là Vô Minh, hoặc “bất liễu tri”, tức là bất liễu tri Tứ Thánh Đế; và cũng còn được giải thích là Antavirahite saṃsāre satte javāpeti - Pháp chủng làm thành tác nhân khiến cho tất cả Chúng Hữu Tình cứ mãi trôi lăn trong Vòng Luân Hồi vô tận.  Một khi Vô Minh được tận diệt thì Minh khởi sinh, sự hiểu biết sáng suốt, thì tất cả các tác nhân đều được tận diệt; như trường hợp Bậc Chánh Đẳng Giác, Bậc Độc Giác và các Bậc Thánh Alahán Vô Sinh].

 

VIỆC BẤT LIỄU TRI THỂ THEO CHÂN LÝ CỦA VÔ MINH ĐÂY

HIỆN HỮU TRONG TÁM ĐIỀU, Đó Là:

 

  1. Dukkhe añāṇaṃ (Bất Tri Khổ Đế): Bất liễu tri trong Khổ Đau.
  2. Dukkhasamudaye añāṇaṃ (Bất Tri Tập Đế): Bất liễu tri Nguyên Nhân làm cho sinh khởi Khổ Đau.
  3. Dukkhanirodhe añāṇaṃ (Bất Tri Diệt Đế): Bất liễu tri Pháp làm cho diệt tắt từ nơi Khổ Đau.
  4. Dukkhanirodhagāminῑpaṭipadāya añāṇaṃ (Bất Tri Đạo Đế): Bất liễu tri đạo lộ làm cho chứng đạt đến sự diệt tắt Khổ Đau.
  5. Pubbante añāṇaṃ (Bất Tri Quá Khứ): Bất liễu tri trong Uẩn, Xứ, Giới thời Quá Khứ.
  6. Aparante añāṇaṃ (Bất Tri Vị Lai): Bất liễu tri trong Uẩn, Xứ, Giới thời Vị Lai.
  7. Pubbantāparante añāṇaṃ (Bất Tri Quá Khứ Vị Lai): Bất liễu tri trong Uẩn, Xứ, Giới trong thời Quá Khứ và Vị Lai.
  8. Idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu añāṇaṃ (Bất Tri Y Thứ Liên Quan Tương Sinh): Bất liễu tri trong Danh Sắc sinh khởi lên do bởi nương vào tác nhân làm cho khởi sinh thể theo Phương Pháp Liên Quan Tương Sinh.

 

  1. Bất Tri Khổ Đế (Dukkhe añāṇaṃ): Bất liễu tri trong Khổ Đau, đó là:

Theo lẽ thường nhiên thì tất cả Chúng Hữu Tình sinh trú trong Thế Gian này, bất luận một ai cũng sẽ phải tiếp xúc với sự già nua lão mại, sự ốm đau bệnh hoạn, sự chết chóc tử vong, sự khổ tâm buồn lòng, sự khóc lóc than thở, sự xa lìa vật yêu thương thích chuộng, việc phải tiếp xúc với vật bất khả lân ái, việc bất thành tựu thể theo sở nguyện, sự phiền muộn bận lòng v.v. Những thể loại này đều toàn là sự khổ đau hết cả thẩy, và khó có một ai sẽ tránh thoát khỏi được, vả lại sẽ phải đón nhận nhiều hoặc ít tùy theo thích hợp đối với vị trí của mình. Tuy nhiên trong tất cả những thể loại khổ đau sai khác này, cả hai gồm việc Sinh và việc Tử đấy là Nhất Định Khổ Uẩn, không có việc miễn trừ đối với một ai, cho dù sẽ được sinh làm Người ở Bậc Thượng Lưu, Hạ Lưu; hoặc sẽ được sinh làm thành Chư Thiên, Phạm Thiên đi nữa; cũng sẽ phải tiếp xúc đều nhau hết cả thẩy. Đối với những thể loại như sự già nua lão mại, sự ốm đau bệnh hoạn, sự khổ tâm buồn lòng, sự khóc lóc than thở, sự xa lìa vật yêu thương thích chuộng, việc phải tiếp xúc với vật bất khả lân ái, việc bất thành tựu thể theo sở nguyện, sự phiền muộn buồn lòng v.v. đấy cũng vẫn là những sự khổ đau, thế nhưng không nhất thiết sẽ phải sinh khởi đối với tất cả mọi người. Chẳng hạn như trong tất cả các nhóm Chúng Chư Thiên (loại trừ Chúng Chư Thiên Tứ Đại Thiên Vương bậc thấp) thì cả hai gồm sự già nua lão mại và sự ốm đau bệnh hoạn đây đã không có hiện bày; tuy nhiên những sự khổ đau khác khác cũng thường luôn phải đón nhận tùy theo nhiều hoặc ít tương tự như nhau. Đối với nhóm Phạm Thiên cho dù quả thật sẽ vượt thoát khỏi biết bao sự khổ đau khác khác đi nữa, tuy nhiên khổ đau trọng yếu là việc Sinh và việc Tử cũng vẫn không trốn thoát khỏi được.

Những sự khổ đau như đã vừa đề cập ở tại đây, cho dù tất cả Chúng Hữu Tình đã phải đón nhận trong Quá Khứ đi nữa, đang phải đón nhận trong Hiện Tại đi nữa, và sẽ phải đón nhận trong Vị Lai đi nữa; tuy nhiên tất cả Chúng Hữu Tình ấy cũng không tự cảm nhận thấy, và cũng không giật mình hoảng sợ đối với những sự khổ đau đấy; vả lại cứ vẫn còn mải đắm say vui thích trong cả sáu Cảnh Dục Trần.  Được kể đến là đắm say trong con cháu, chồng vợ, cha mẹ, với cả anh em quyến thuộc; đắm say trong cả lợi lộc, danh vị, trú xứ, cùng với các vật dụng tiêu dùng. Cũng ví tựa như đàn vịt gà đã bị người chủ bắt lấy nhốt bỏ trong chuồng trại, để rồi sẽ phải lấy đem đi giết; thế nhưng những đàn vịt gà này cũng chẳng có tự cảm nhận thấy rằng mình sẽ phải bị giết. Trong sát na đang bị nhốt trong chuồng trại thì cứ mải mê lăng xăng lích xích, đánh đá nhau, cắn mổ nhau, và cứ vẫn mải giành giật với nhau từng miếng ăn vật thực; chẳng hạn như vầy, là cũng chỉ vì cứ vẫn mải mê muội, và cũng chẳng có hiểu biết rằng mình đang ở trong cảnh khổ đau ấy vậy.  Điều này như thế nào, thì tất cả Chúng Hữu Tình cứ vẫn mải đắm say vui thích trong các Cảnh Dục Trần như đã vừa đề cập đến; là cũng vì bất liễu tri trong những sự khổ đau, và rằng những thể loại này đích thị chính là sự khổ đau cũng dường như thế ấy.

Ngay cả trong thời kỳ này, với nền khoa học đang phát triển tiến bộ như thế nào đi nữa, tuy nhiên với phương pháp để sẽ không làm cho đã có sinh rồi sẽ còn phải bị già, bệnh và chết ấy, thì quả thật khoa học ngày nay cũng bó tay và cũng không có khả năng để mà trông mong đặng cho thực hiện để được thành tựu một cách hoàn hảo.  Phương pháp để sẽ làm cho thoát khỏi sự sinh lão bệnh tử đây, chỉ có duy nhất hiện hữu ở trong Phật Giáo thôi; và chính vì thế tất cả các Bậc Trí Tuệ mới nỗ lực tầm cầu con đường tu tập ngõ hầu làm sao cho được thoát ra khỏi những sự khổ đau ấy vậy.  Cũng như đã có kệ ngôn trình bày rằng:

 

Patthenti muccitaṃ santā           Saṃsārā bhayabheravā

Dujjanā modamānāva                Vaṭṭanti bhavasāgare

Bậc Hiền Triết (Sappurisa) đã trông thấy điều tác nghiệt ở trong sắc thân, đã không còn có sự bám chặt giữ lấy, và có Trí Tuệ mục kích những thể loại này ở thời vị lai; liền có sự giật mình hoảng sợ và có sở nguyện cầu sẽ vượt thoát ra khỏi việc sinh tử luân hồi trong 31 Cõi Giới chẳng có điểm chặng cuối cùng với việc sinh lão bệnh tử quả là điều nguy hại đáng kinh sợ.  Còn đối với kẻ Phi Hiền Triết (Asappurisa) thì chẳng có nghĩ tưởng đến, và cũng bất mục kích việc sinh lão bệnh tử, vả lại còn có sự đắm say bám chặt trong những Cảnh Dục Trần này, có sự mảng vui với những Cảnh có sắc, thinh, khí, vị, xúc làm đối tượng, và tư duy nghĩ tưởng đến ở trong các Sinh Hữu sánh tợ như lòng đại dương, thì ắt hẳn phải sinh tử luân hồi trong 31 Cõi Giới, và cứ mãi thường luôn luân chuyển di dịch từ Cõi Giới này đến Cõi Giới khác.

Với lời giải thích như đã vừa đề cập tại đây, đó là việc giải thích trong sự bất liễu tri trong Khổ Đau (Bất Tri Khổ Đế).

 

  1. Bất Tri Tập Đế (Dukkhasamudaye añāṇaṃ): Bất liễu tri Nguyên Nhân làm cho sinh khởi Khổ Đau, đó là:

Những sự khổ đau bao gồm các sự việc sinh lão bệnh tử v.v. một khi cùng kéo nhau đi tìm cái nguyên nhân đầu tiên đã làm cho khởi sinh những thể loại khổ đau này, thì sẽ được liễu tri rằng chính là Tham Ái (Lobha), tức là sự ham muốn, sự hân hoan duyệt ý, sự mãn ý hài lòng, sự mê muội dính mắc; và đấy đích thị chính là cái nguyên nhân đầu tiên vậy. Vì lẽ thường nhiên hết tất cả mỗi con người trong Thế Gian này đã phải tích cực nỗ lực với nhau để tác hành biết bao sự việc, ở cả hai phía tốt và xấu, ngõ hầu tùy tầm tùy tứ cho có được những đối tượng đáng hân hoan duyệt ý, đáng sở cầu sở nguyện, cho dù sẽ phải cực thân khổ trí biết là chừng nào đi nữa, cũng vẫn không thối chí nản lòng, cũng chỉ hằng mong kỳ vọng cho được thành tựu trong các sự việc mà mình đã có tác hành, đã có tạo tác; và thế rồi cũng sẽ có được điều mà mình đã đắc kỳ sở nguyện. Thế nhưng tất cả những con người ấy đã không tự tìm thấy để được nhận thức rằng mình đã bị rớt ở dưới mãnh lực của Tham Ái (Lobha) chính là người đã sắp bày cho mình phải bị vất vả khổ nhọc, lao tâm khổ lực với mãnh lực:

- từ nơi Sắc Ái Dục (Rūpataṇhā) có sự hân hoan duyệt ý trong những sắc màu;

- từ nơi Thinh Ái Dục (Saddataṇhā) có sự hân hoan duyệt ý trong các âm thanh;

- từ nơi Khí Ái Dục (Gandhataṇhā) có sự hân hoan duyệt ý trong các khí hơi;

- từ nơi Vị Ái Dục (Rasataṇhā) có sự hân hoan duyệt ý trong các mùi vị;

- từ nơi Xúc Ái Dục (Phoṭṭhabbataṇhā) có sự hân hoan duyệt ý trong các việc tiếp xúc đụng chạm;

- từ nơi Pháp Ái Dục (Dhammataṇhā) có sự hân hoan duyệt ý trong các việc tư duy nghĩ tưởng.

Tham Ái là sự khao khát ham muốn, là sự duyệt ý vừa lòng ở trong sắc, thinh, khí, vị, xúc v.v. chỗ mà ta nghĩ tưởng rằng sẽ đem lại sự an lạc hạnh phúc, và đích thị chính những thể loại này đã làm thành Nhân; và việc tích cực nỗ lực bằng với Thân, bằng với Lời để cho có được những điều này, đã làm thành Quả.  Hơn thế nữa, ngay trong sát na đang tích cực nỗ lực ấy, ắt hẳn phải bị đón nhận sự vất vả khổ nhọc, sự lao tâm khổ lực; chính đấy đều toàn là sự khổ đau, và đấy cũng là Quả phải bị đón nhận từ nơi việc tích cực nỗ lực đã trở lại làm thành Nhân một lần nữa. Vả lại, nếu giả như việc tích cực nỗ lực ấy đã hiện hành một cách có chừng mực, thì những sự khổ đau mà phải bị đón nhận cũng sẽ hiện hành một cách có chừng mực tương xứng. Và nếu giả như việc tích cực nỗ lực khởi lên nhiều độ chừng bao nhiêu thì việc phải đón nhận sự khổ đau cũng sẽ khởi lên nhiều bằng chừng đấy vậy.

Lại nữa, nếu như việc tích cực nỗ lực đã hiện hành trong đạo lộ Thiện Hạnh, chẳng hạn như nỗ lực tác hành các Thiện Sự có Xả Thí, Trì Giới, Tu Tập; ngõ hầu cho có được sự an lạc cùng tột, phát sinh lên ngay trong kiếp sống này và luôn cả ở kiếp sống sau. Việc tác hành Thiện Sự có sự kỳ vọng như vậy, thì cũng được tính là tác hành với mãnh lực Tham Ái đã làm thành Nhân cho phải bị đón nhận sự khổ đau khởi sinh lên, và đấy chính là sự vất vả khổ nhọc ở cả Thân và Tâm. Trong sát na đang khi tác hành và một khi đã tử vong lìa khỏi kiếp sống này; thế rồi cũng lại tiếp tục phải bị đón nhận sự khổ đau ở trong kiếp sống sau nữa, và điều ấy chính là sự việc sinh lão bệnh tử. Tuy nhiên người đang bị đón nhận sự khổ đau đây, thì thường khi lại có được sự kham nhẫn, do bởi nhận thấy rằng ấy là thuộc lẽ thường nhiên. Thế nhưng, lại chẳng có nghĩ đến rằng sự việc sinh lão bệnh tử ấy, khổ Thân khổ Tâm ấy v.v. mà mình đang phải đón nhận đây, và sẽ còn tiếp tục phải bị đón nhận nữa ở thời vị lai, đấy chính là Quả sinh khởi từ nơi Tham Ái đã làm thành Nhân.

Nếu như việc tích cực nỗ lực đã hiện hành trong đạo lộ Bất Thiện Hạnh, chẳng hạn như những thể loại Sát Tử, Thâu Đạo, Tính Dục Tà Hạnh, Vọng Ngữ, Ly Gián Ngữ, Thô Ác Ngữ, Hồ Ngôn Loạn Ngữ, Ẩm Tửu, v.v. ngõ hầu cho có được của cải tài sản, vàng bạc dùng để cung ứng cho sự vui thích lạc thú đối với mình. Việc tạo tác những Ác Hạnh như đã vừa đề cập đến đây, thì cũng được tính là tạo tác với mãnh lực Tham Ái, và đã làm thành Nhân cho phải bị đón nhận sự khổ đau khởi sinh lên ngay trong kiếp sống này và luôn cả ở kiếp sống sau. Sẽ nói rằng trong kiếp sống này thì thường phải bị đón nhận sự khổ đau một cách nghiêm trọng cả về Thân và Tâm; tức là có thể bị khiển trách và khinh miệt từ nơi các bậc Hiền Triết, hoặc có thể bị người ta bắt và phải bị thọ hình phạt theo luật pháp nhà nước, hoặc có thể sẽ phải bị trừng phạt cho đến mức thụ khổ án quyết tử hình. Những thể loại này đều toàn là khổ đau mà phải bị đón nhận một cách “Ác Nghiệp đưa đến Quả Phược hiển hiện nhãn tiền”.  Nếu như người ấy đã tử vong, thì sẽ còn tiếp tục phải bị đón nhận sự khổ đau một cách nghiêm trọng nữa ở trong kiếp sống vị lai; tức là phải đi tái sinh thành Hữu Tình Địa Ngục, hoặc thành hàng Ngạ Quỷ cũng có, hoặc thành hàng Bàng Sinh cũng có. Và nếu như đã tái sinh vào bất luận một nhóm nào ở trong Tứ Khổ Thú rồi, thì thường rất ít có hy vọng để sẽ có được tái sinh trở lại làm thành Nhân Loại hoặc Chư Thiên; và đấy chính là điều rất đáng kinh sợ hãi hùng. Dù cho đã là như thế, thế nhưng tất cả Chúng Hữu Tình vẫn cứ mải đua nhau si mê đần độn dưới mãnh lực của Tham Ái, và không tự hiểu biết rằng chính Tham Ái đây, là cái nguyên nhân đầu tiên đã làm cho phải bị đón nhận những sự khổ đau.

Cũng ví như một con cá đã trông thấy miếng mồi móc dính ở cuối lưỡi câu rồi, tuy nhiên chỉ có sự hiểu biết rằng “mình sẽ cần phải ăn miếng mồi ấy thôi”, và chẳng có hiểu rằng “mình sẽ phải bị nhận lãnh một điều nguy hiểm nào đây”.  Khi há miệng đớp lấy miếng mồi rồi, thì bị lưỡi câu móc dính vào miệng và phải thọ lãnh sự khổ đau thi dĩ khốc hình nghiêm trọng muôn vàn; hơn nữa lại còn bị người thả lưỡi câu ấy, túm lấy và giết đi để làm thành vật thực cho mình. Điều này như thế nào, thì tất cả Chúng Hữu Tình phải thọ lãnh sự khổ thân, khổ tâm với biết bao trường hợp, nhiều cũng có, ít cũng có, bởi do việc tích cực tầm cầu sự an lạc đến cho mình với mãnh lực từ nơi Tham Ái cũng tương tự như nhau.

Lại nữa, tất cả Chúng Hữu Tình cho dù sẽ phải luân hồi sinh tử không thể nào đếm kể xiết trải qua với bao kiếp sống đi nữa, tuy nhiên những Chúng Hữu Tình ấy cũng vẫn không có sự chán ngán dù chỉ một chút ít. Tất cả cứ vẫn mải hân hoan duyệt ý trong từng mỗi kiếp sống của mình đang hiện hữu hết cả thẩy. Chẳng kể là sẽ được thọ sinh thành Nhân Loại, Chư Thiên, Phạm Thiên; mà ngay cả sẽ tái sinh thành nhóm Hữu Tình Bàng Sinh, và cho chí đến tận cả loài dòi ở trong hầm phẩn đi nữa, thì cũng vẫn mải duyệt ý vui thích ở trong cảnh trạng sinh sống của mình tương tự như nhau. Sự việc là như vậy, cũng vì tất cả Chúng Hữu Tình hiện hữu trong thế gian này có Ái Dục (Taṇhā) đã là bạn lữ thân thích chực chờ để cung phụng và làm thỏa mãn cho mình, mới làm cho tất cả Chúng Hữu Tình ấy chẳng có chán ngán đối với việc Sinh trong từng mỗi kiếp sống, mà đấy lại là căn nguyên của hết tất cả khối Khổ Uẩn. Hơn nữa, chẳng nhận thấy rằng những khối Khổ Uẩn của mình đang tiếp xúc đây, đích thị cũng chính do bởi Ái Dục là cái nguyên nhân đầu tiên. Tương tự như một con chó mảng vui với khúc xương bò mà chẳng còn có chút thịt, là bởi do nương vào nước miếng của chính mình như thế nào; thì tất cả Chúng Hữu Tình đang thụ hưởng Cảnh Dục Trần, và đang phải chịu đựng một cách không có sự chán ngán với biết bao thống khổ mà bản thân đang có được tiếp xúc, là cũng do bởi mãnh lực từ nơi Ái Dục hiện hữu trong Uẩn Giới Tính của chính mình dường thế ấy. Còn các sự việc làm thành công cụ để cho khởi sinh lên sự vui thích dính mắc, thì đó chỉ là những Cảnh đối tượng thuộc thành phần phối hợp làm cho Ái Dục sinh khởi và tăng trưởng lớn mạnh lên ngần ấy thôi. Với lý do này, Đức Phật mới lập ý nói rằng đích thị chính Ái Dục đây, đã là người lôi kéo tất cả Chúng Hữu Tình, để làm cho không được vượt thoát ra khỏi Vòng Luân Hồi.  Như Ngài đã có trình bày rằng:

 

Taṇhādutiyo puriso                    Dῑghamaddhāna saṃsāraṃ

Itthambhāvaññathābh āvaṃ      Saṃsāraṃ nātivattati

          Với kẻ đã có Ái Dục làm bạn lữ thì cuộc viễn du cứ luôn mải tiếp tục từ kiếp sống này đến những kiếp sống khác, và như thế cứ đi mải đi mải ở trong các kiếp sống ấy, để rồi chẳng có khả năng để vượt thoát ra khỏi Vòng Luân Hồi kéo dài vô tận; cũng bởi do sự làm thành kẻ có Ái Dục làm bạn lữ. Còn đối với bậc đã vượt thoát ra khỏi Tham Ái rồi, hoặc bậc đang tác hành với bao công việc mà chẳng có hiện hành với mãnh lực của Tham Ái, thì ắt hẳn sẽ vượt thoát khỏi hết tất cả mọi thống khổ.  Hoặc nhỡ như vẫn chưa được thoát khỏi, thì khi tiếp xúc với sự khổ đau ấy cũng chỉ là hiện hành theo lẽ thường nhiên, tức là chỉ có sinh lão bệnh tử ngần ấy thôi; và sớm muộn rồi cũng có khả năng để sẽ vượt thoát ra khỏi mọi thống khổ.  Với lý do này, Đức Thế Tôn mới lập ý khải thuyết rằng:

 

Taṇhāya jāyate soko                   Taṇhāya jāyate bhayaṃ

Taṇhāya vippamuttassa             Natthi soko kuto bhayaṃ

          Sự sầu khổ thường sinh khởi bởi do Ái Dục làm Nhân. Bao tai họa cũng thường sinh khởi bởi do Ái Dục làm Nhân. Sự sầu khổ thường không có đối với Bậc đã vượt thoát ra khỏi Ái Dục rồi. Khi sự sầu khổ đã không còn, thì nhất định bao tai họa cũng chẳng thể nào còn hiện hữu.

Với lời giải thích như đã vừa đề cập ở tại đây, đó là việc giải thích trong sự bất liễu tri Nguyên Nhân làm cho sinh khởi Khổ Đau (Bất Tri Tập Đế).

 

  1. Bất Tri Diệt Đế (Dukkhanirodhe añāṇaṃ): Bất liễu tri Pháp làm cho diệt tắt từ nơi Khổ Đau, đó là:

Sự sinh hoạt tất cả Chúng Hữu Tình luân hồi sinh tử trong những cả 31 Cõi Giới đây, đều đã rơi vào ở trong khối Khổ Uẩn; cho dù người ấy sẽ được thọ sinh làm Người Thượng Lưu, Hạ Lưu; hoặc đã tái sinh trong Cõi Khổ Thú, Cõi Thiện Thú đi nữa, thì cũng phải bị tiếp xúc với biết bao khổ đau, có sinh lão bệnh tử v.v. Với lý do này, Đức Phật mới không có lập ý ca ngợi khuyến khích tất cả Chúng Hữu Tình khả huấn luyện trong sự việc sinh lão bệnh tử, ở trong các tầng Cõi Giới cao, hoặc thấp, hoặc luôn cả làm Người Thượng Lưu, Hạ Lưu; mà Ngài chỉ có lập ý hướng dẫn về một đạo lộ để làm cho tất cả Chúng Hữu Tình ấy cùng nhau được thoát ra khỏi các Cõi Giới ấy hết cả thẩy.

Phẩn là vật đáng ghê tởm đối với hết tất cả mọi người, cho dù phẩn ấy sẽ phát sinh từ nơi vật thực có giá trị tinh lương cao quý, chẳng hạn như bơ sữa, phó mát, heo, vịt, gà, v.v. hoặc sẽ phát sinh từ nơi vật thực có giá trị thấp hèn ty liệt, chẳng hạn như cua ướp muối, cá khô mặn v.v. đi nữa; thì các vật ấy cũng đều đáng ghê tởm hết cả thẩy, và không có một ai tán thán và ca ngợi rằng là tốt đẹp hết cả. Tất cả Chúng Hữu Tình sinh trú trong các Cõi Giới cũng tương tự như nhau. Tất cả các Bậc Hiền Trí (Paṇḍita) có Bậc Chánh Đẳng Giác v.v. chẳng có một ai ca ngợi và khuyến khích nói tốt về điều ấy cả, là vì phải bị rớt vào trong những khối Khổ Uẩn như đã đề cập đến rồi vậy.

Điều mà tất cả các Bậc Hiền Trí có Bậc Chánh Đẳng Giác v.v. tán thán và ca ngợi, làm thành vật chí thượng cao quý, đơn nhất chỉ có Níp Bàn thôi. Vì lẽ Níp Bàn có Thực Tính An Tĩnh (Santilakkhaṇa), tức là sự an lạc tĩnh trạng lìa khỏi Ngũ Uẩn Danh Sắc; bất hữu quan hết tất cả với việc trông thấy, việc được lắng nghe, việc ngửi khí hơi, việc nếm mùi vị, việc xúc chạm, việc nghĩ suy. Lời huấn từ Bậc Chánh Đẳng Giác đã chứa đựng hết trong cả Tam Tạng có 84,000 Pháp Uẩn (Dhammakhandha), mà Ngài đã kỳ vọng với mục đích nhắm tới cũng chính là Vị Giải Thoát (Vimuttirasa) hàm ý duy nhất chỉ có Níp Bàn. Với lý do này, Đức Phật mới lập ý miêu tả và tán thán về Níp Bàn với rất nhiều phương cách, và đã có hiện bày như vầy:

Nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ - Níp Bàn có sự an vui tuyệt đối.

Natthi santi paraṃ sukhaṃ - Ắt hẳn không có sự an lạc nào tột cùng chí thượng hơn cả Níp Bàn.

Nibbāna paramaṃ vadanti Buddhā - Từng mỗi Bậc Chánh Đẳng Giác đều lập ý nói rằng Níp Bàn là Pháp Chí Thượng.

Cho dù Đức Phật đã thường luôn lập ý tuyên bố về Ân Đức Tịnh Lạc của Níp Bàn, bất kể là sẽ lập ý khải thuyết Pháp Thoại với bất luận về vấn đề nào, ở trong bất luận trú xứ nào, và trong từng mỗi lần như vậy Ngài cũng đều lập ý nêu Níp Bàn lên để trình bày trong phần cuối cùng của Pháp Thoại đi nữa; thế nhưng tất cả Hội Chúng đã cố gắng để thực hành theo sự kỳ vọng của Ngài thì cũng chẳng có được bao nhiêu, còn số lượng người có việc trau giồi thực hành để làm cho phải luân hồi ở trong từng mỗi kiếp sống luôn cả với tự bản thân mình cũng phải đón nhận thì có được rất nhiều, và có số lượng nhiều như thể cát ở trong biển cả vậy.  Khi dùng tay múc lấy cát ấy lên để ở trong một nắm tay thì số lượng cát hiện hữu ở trong một nắm tay ấy được sánh tựa như người với tự bản thân thực hành để cho được chứng đạt đến Níp Bàn; còn số lượng cát ở trong biển cả ấy được sánh tựa như số lượng người vẫn còn có sự mảng vui luân hồi ở trong những kiếp sống vậy.  Chính vì thế, Đức Thế Tôn mới lập ý trình bày rằng:

 

Appakā te manussesu       Ye janāpāragāmino

Athāyaṃ itarā pajā          Tīramevānudhāvati

Trong bất luận những Hội Chúng nào mà có người đạt đến bờ kia, tức là Níp Bàn thì có số lượng hy thiểu ít oi. Còn ngoài ra ấy, thì đại đa số thường chỉ có len lỏi ở phía bên bờ này, tức là cứ mải luân chuyển trong Vòng Luân Hồi bị thúc phược do bởi Hữu Thân Kiến.

Một trường hợp khác nữa, được so sánh ví tựa như loài chim kên kên. Theo lẽ thường nhiên thì chim kên kên ấy, nếu giả như sẽ có người đi đến loan báo rằng “ở phía bên bờ kia có vật thực với chất vị bổ dưỡng và có đủ các mùi hương thơm; xin báo cho tất cả nhóm các Ngài hãy cùng rủ nhau để đi đến mà ăn cho được vui sướng đi”.  Nhóm chim kên kên đã được lắng nghe loại tin tức này rồi, thì cũng sẽ chẳng có bất luận một chim kên kên nào có sự hoan hỷ vui thích cả. Thế nhưng, nếu nhỡ như có người đi đến bảo rằng “ở chỗ kia có một con chó chết, hoặc trâu bò chết, và có nhiều con đang bốc mùi hôi thối rữa; xin hãy cùng rủ nhau để đi đến mà ăn cho được no bụng đi”. Tin báo như vậy, thì nhóm chim kên kên sẽ có sự vui thích duyệt ý, mới vội rủ nhau để đi đến tại nơi ấy ngay tức thì.  Điều này được nêu lên để so sánh với tất cả các Bậc Hiền Trí có Bậc Chánh Đẳng Giác v.v. ở các Ngài đã cố gắng lặp đi lặp lại giải thích và huấn hóa đối với tất cả mọi con người cho được kiến thị điều tác nghiệt của việc luân hồi sinh tử trong Vòng Luân Hồi đều toàn là đã bị rớt ở trong khối Khổ Uẩn hết cả thẩy; vả lại đã có hướng dẫn đạo lộ để sẽ vượt thoát ra khỏi những khối Khổ Uẩn này, để cho tất cả con người sẽ thực hành tu tập theo. Thế nhưng, quả thật khó khăn để cho tất cả những con người ấy có được sự sùng tín và quan tâm chú ý đến thực tính cốt yếu từ ở những lời hướng dẫn dạy bảo này. Tuy nhiên, nếu giả như có người đi đến miêu tả và ca ngợi về những sự an lạc đang hiện hành trong thế gian này, thế rồi cả nhóm người ấy sẽ phát sinh lên sự cảm tính vui thích với bao nỗi kích cảm; và sẽ được hướng dẫn để cho thực hành như thế nào thì hết tất cả cũng cùng rủ nhau thực hành theo y như vậy, để mong sao sự an lạc được hiện hữu và tồn tại khắp trong thế gian; vả lại những điều ấy quả thật chẳng khó khăn chi, và chẳng có thực tính cốt yếu nào cả.  Chính vì lý do này, kẻ ấy ắt hẳn chẳng có được đón nhận sự an lạc chí thượng, tức là Níp Bàn; có nghĩa là kẻ ấy sẽ chẳng có ngày nào được thoát ra khỏi sự sinh lão bệnh tử; và sẽ phải thường luôn bị luân chuyển trong Vòng Luân Hồi.  Ứng hợp với Đức Thế Tôn đã có lập ý trình bày rằng:

 

Asāre sāramatino                       Sāre cāsāradassino

Te sāraṃ nādhigacchanti           Micchāsaṅkappagocarā

Những hạng người nào có sự kiến chấp thủ ở trong điều chẳng cốt yếu lại cho là cốt yếu, và ở trong điều cốt yếu lại cho là chẳng cốt yếu; những hạng người ấy là kẻ có sự nghĩ suy sai lầm (Tà Tư Duy), chú ý quan tâm ở trong đối tượng sai lầm. Ắt hẳn là kẻ không có Giới Đức (Sῑlaguṇa), Định Đức (Samādhiguṇa), Tuệ Đức (Paññāguṇa), ấy là những thực tính cốt yếu có khả năng dắt dẫn cho chứng đạt đến Níp Bàn.

Sự an lạc ở trong Níp Bàn chỗ được gọi là Tịnh Lạc (Santisukha) với sự an lạc ở trong Thế Gian chỗ được gọi là Lạc Thụ (Vedayitasukha) có thực tính đối nghịch với nhau.  Sẽ nói rằng chính từ nơi sự tĩnh lặng của Danh Sắc, Ngũ Uẩn mới được gọi tên là Tịnh Lạc.  Còn Lạc Thụ ấy, là sự an lạc hữu quan với việc thụ hưởng Cảnh, có sắc thinh khí vị xúc, v.v. mà sự an lạc ở thể loại này thì tất cả Nhân Loại chả là trẻ con hoặc người lớn, và Chư Thiên, Phạm Thiên cho đến Hữu Tình Khổ Thú cũng hằng mong mỏi được thỏa mãn, cho là hữu ích và hết tất cả cùng nhau đều có sự kỳ vọng đạt thành sở nguyện.  Còn đối với Tịnh Lạc, thì tất cả Chúng Hữu Tình chẳng trông thấy điều lợi ích, chẳng có sự quan tâm để ý đến; ngay cả một vài nhóm Phật Tử có sở nguyện Níp Bàn, nhưng chỉ thường hay hiện hành qua lời nói, còn tâm trí thì thật tình chẳng có thiên hướng nghĩ tưởng đến Níp Bàn.  Đa số có sự hiểu biết với nhau rằng Níp Bàn ấy là một Cõi Giới, một trú xứ ở ngoài khỏi thế gian này.  Trong Cõi Giới ấy có đầy đủ viên mãn với sự an lạc ở đủ các thể loại, chẳng có sự khổ đau, và người đã đạt đến Níp Bàn này thì cũng có nghĩa là khi đã tử vong lìa khỏi thế gian này rồi, cũng được sinh trú ở nơi đó; hơn nữa chẳng có việc lão bệnh tử, chẳng có những sự sầu khổ ưu não; tất cả đều toàn là an lạc hạnh phúc. Hoặc một vài nhóm khác lại có hiểu biết rằng người đã thọ sinh ở trong Níp Bàn ấy, thì chẳng có hình tướng sắc thân, đơn nhất chỉ có sự cảm tính, vả lại sự cảm tính hiện hữu ở đây thuần khiết với sự an lạc, và chẳng có sự đau khổ pha trộn vào.

Tuy nhiên người có sở nguyện vọng chứng đạt đến Níp Bàn bởi do nương vào sự hiểu biết về Níp Bàn như đã vừa đề cập ở tại đây làm thành tác nhân, đã có được việc học hỏi một cách chân chánh và đã phát sinh lên sự liễu tri một cách chân chánh rằng bậc đã chứng đạt được Níp Bàn ấy chính là tất cả các Bậc Vô Sinh một khi đã lìa khỏi thế gian này rồi, thì Danh Sắc, Ngũ Uẩn của tất cả các Bậc Vô Sinh ấy thường đã được tiệt diệt chẳng còn dư sót, các sự cảm tính cũng chẳng có; như vậy rồi người ấy lại có thể khởi sinh lên sự nghi ngại ở trong lòng nghĩ rằng việc chứng đạt đến Níp Bàn ấy sẽ có được sự an lạc cùng tột như thế nào trong khi chẳng có chi còn dư sót đây !  Với lý do này, tất cả các Bậc Hiền Trí (Paṇḍita) Bậc đã kiến tri cả Tứ Bố Úy (Bhaya) hiện hữu trong Vòng Luân Hồi bởi do nương vào việc Sinh Tử chỉ ngần ấy, mới sẽ tự nguyện lòng chứng đạt đến Níp Bàn một cách chân thật; còn ngoài ra các Bậc ấy rồi, thì chẳng có sẳn lòng hoan hỷ để sẽ chứng đạt Níp Bàn, bởi nhận thấy rằng không có sự an lạc.  Như thế, Đức Phật mới lập ý khải thuyết rằng:

 

Sadevakassa lokassa                   Ete vo sukhasammatā

Yattha cete nirujjhanti               Taṃ tesaṃ dukkkasammataṃ

Hữu Tình ở khắp cả thế gian cùng với cả Chư Thiên đã giả định với nhau rằng những Cảnh Hiệp Thế có sắc thinh khí vị v.v. đấy là tốt đẹp, và có sự an lạc. Pháp chủng nào là Níp Bàn đã tiệt diệt hết tất cả những Cảnh Hiệp Thế có sắc thinh khí vị v.v. đấy, thì Chúng Hữu Tình ở khắp cả thế gian cùng với cả Chư Thiên mới giả định với nhau rằng Pháp chủng là Níp Bàn ấy là Pháp không tốt, là đau khổ vậy.

 

Cả Tứ Bố Úy (Bhaya 4) ấy là:

  1. Dị Giáo Kiến Tập Bố Úy (Nānāsatthaullokanabhaya): Vẫn chưa thoát ra khỏi việc cung kính các bậc Thầy Tổ. Có nghĩa trong kiếp sống này thì quả thực có việc cung kính đến Bậc Chánh Đẳng Giác, tuy nhiên ở trong các kiếp sống nối tiếp thì không còn cung kính Giáo Pháp của Bậc Chánh Đẳng Giác, mà lại chuyển đổi đi tôn kính các Tôn Giáo khác, chí đến tôn kính những cả Chư Thiên, Phạm Thiên, Quỷ Thần Ma, v.v. chẳng hạn với những thể loại này. Đây là một điều thật đáng kinh sợ.
  2. Thụ Khổ Hình Bố Úy (Vinipātabhaya): Bất định trú xứ trong việc đi thọ sinh. Có nghĩa một khi chết đi, lìa khỏi Thế Gian này rồi, sẽ đi thọ sinh ở chốn nao cũng không được hay biết; sẽ đi thọ sinh thành Nhân Loại, Chư Thiên, Phạm Thiên; hoặc sẽ đi thọ sinh thành nhóm Hữu Tình Địa Ngục, Hữu Tình Bàng Sinh, Ngạ Quỷ, Ác Ma; tất cả và tất cả cũng chẳng được hay biết, ứng hợp tùy theo Nghiệp Lực của mình đã có tạo tích lũy. Hoặc ở trong kiếp sống này được thọ sinh làm thành người sang giàu, xinh đẹp, thông minh, dòng dõi thượng hạng, có sự ghi nhớ minh mẫn, có đầy đủ các bộ phận, và có sức khỏe hoàn hảo.  Ở trong kiếp sống kế tiếp, có thể sẽ đi thọ sinh làm thành người nghèo khổ, xấu xí, đần độn, dòng dõi hạ cấp, có tâm thần bất định, tính khí thất thường, có sự khiếm khuyết các bộ phận, là người yếu đuối hay bệnh; chẳng hạn với những thể loại này.  Đây là cũng là một điều thật đáng kinh sợ.
  3. Khổ Thú Bố Úy (Apāyabhaya): Vẫn chưa thoát ra khỏi việc đi thọ sinh trong Cõi Khổ Thú. Có nghĩa ở trong kiếp sống này thì được sinh thành Nhân Loại hoặc Chư Thiên. Kiếp sống kế tiếp có thể đi thọ sinh trong Cõi Khổ Thú, thành nhóm Hữu Tình Địa Ngục, Hữu Tình Bàng Sinh, Ác Ma, Ngạ Quỷ, Atula cũng có. Nhóm Hữu Tình đã đi thọ sinh thành Phạm Thiên thì sẽ không nhất định rằng sẽ không đi thọ sinh trong Khổ Thú, bởi vì vẫn đang còn là hàng Phàm Phu.  Cho dù ở trong kiếp sống thứ hai thì sẽ không đi thọ sinh ở trong Cõi Khổ Thú đi nữa, tuy nhiên ở trong kiếp sống thứ ba trở đi thì cũng có thể sẽ đi thọ sinh.  Đây cũng là một điều thật đáng kinh sợ.
  4. Ác Hạnh Bố Úy (Duccaritabhaya): Vẫn chưa thoát ra khỏi việc tạo tác những Ác Hạnh. Có nghĩa trong kiếp sống này thì không có tạo tác Ác Hạnh, tức là không ưa thích việc sát mạng Hữu Tình, hành hạ bức hại Hữu Tình, không là lũ trộm cướp, không là người nói năng hồ đồ, không là người uống rượu men và chất say, không là người có sự thấy sai chấp lầm. Thế nhưng ở trong những kiếp sống kế tiếp, thì có thể thọ sinh thành người có sự hoan hỷ duyệt ý ở trong việc tạo tác Ác Hạnh; tức là ưa thích sát mạng Hữu Tình, là lũ trộm cướp, là người nói năng hồ đồ, ưa thích uống rượu men và chất say, có sự thấy sai chấp lầm; chẳng hạn với những thể loại này. Đây cũng là một điều thật đáng kinh sợ.

Với lời giải thích như đã vừa đề cập ở tại đây, đó là việc giải thích trong sự bất liễu tri Pháp làm cho diệt tắt từ nơi Khổ Đau (Bất Tri Diệt Đế).

 

  1. Bất Tri Đạo Đế (Dukkhanirodhagāminῑpaṭipadāya añāṇaṃ): Bất liễu tri đạo lộ làm cho chứng đạt đến sự diệt tắt Khổ Đau, đó là:

Theo lẽ thường nhiên, tất cả mọi người ở trong thế gian này ai ai cũng đều hoàn toàn mong mỏi được tránh phải tiếp xúc với sự đau khổ, và với người đã phải tiếp xúc sự đau khổ ấy rồi, thì tích cực phấn đấu tầm cầu đạo lộ để sẽ cho vượt thoát ra khỏi các sự đau khổ ấy.  Chính vì nương vào tác nhân này, mà mọi người ai ai cũng đều nỗ lực thực hiện việc tu tập bằng đủ mọi phương cách, cả ở trong đường lối Thế Tục lẫn trong đường lối Đạo Pháp, để ngõ hầu có được sự an lạc và cho thoát khỏi sự đau khổ ấy vậy.

Sự đau khổ này đã được chia ra thành hai thể loại, đó là:

  1. Khổ Phổ Thông (Dukkhasamaññā): là việc sinh lão bệnh tử của tất cả Chúng Hữu Tình trong khắp cả thế gian hiện hành theo lẽ thường nhiên, chẳng có người nào tránh thoát khỏi được.
  2. Khổ Cá Biệt (Dukkhāveṇikā): là sự đau khổ sinh khởi do bởi năm thể loại Điêu Tàn (Byasana), đó là:

- Quyến Thuộc Điêu Tàn (Ñātibyasana): việc điêu tàn thân hữu quyến thuộc.

- Tài Sản Điêu Tàn (Bhogabyasana): việc điêu tàn tài sản của cải, vàng bạc, danh vị, đồ chúng tùy tùng.

- Bệnh Trạng Điêu Tàn (Rogabyasana): có việc ốm đau bệnh hoạn bức bách hành hạ.

- Giới Luật Điêu Tàn (Sīlabyasana): có sự bất tường về giới luật.

- Tri Kiến Điêu Tàn (Diṭṭhibyasana): có sự thấy sai chấp lầm từ ở nơi Chân Lý. Và sự đau khổ sinh khởi bởi do phải bị tiếp xúc với Hỏa Hoạn Tai Ương (Aggibhaya) cũng có, hoặc Đạo Tặc Tai Ương (Corabhaya) cũng có, hoặc Vua Quan Tai Ương (Rājabhaya) cũng có, hoặc Phi Hiền Triết Tai Ương (Asappurisabhaya) cũng có; hoặc với những thể loại về sự đói khát, khiếm khuyết trong việc tìm kiếm vật thực, trú xứ, v.v.

 

Có hai thể loại hành động ở tất cả mọi con người đã thực hiện để ngõ hầu cho thoát khỏi những sự khổ đau này, đó là:

  1. Thực hành ở trong đường lối Thế Tục: tức là sự nỗ lực tinh cần phối hợp việc mưu sinh, chẳng hạn như làm ruộng, làm vườn, buôn bán, làm thuê mướn, làm quốc sự, v.v.  Và một vài người đã phối hợp việc mưu sinh hiện hành trong đường lối Ác Hạnh, chẳng hạn như trộm cắp thâu đạo, làm nghề đánh cá, lừa đảo lường gạt, v.v. Và cũng có một vài người một khi đã tiếp xúc với sự Khổ Thân Khổ Tâm rồi, thì đã chạy đi tìm kiếm thầy thuốc, thầy bói để khắc phục hoặc diệt trừ các sự bất tường, cho thoát khỏi những sự khổ đau này, chẳng hạn như vầy.
  2. Thực hành ở trong đường lối Đạo Pháp: tức là việc thực hiện Xả Thí, hoặc thọ trì Giới Luật, hoặc tu tập An Chỉ; hoặc thực hành theo Nhiệt Tâm Tự Tu Tập Khổ Hạnh (Attakilamathānuyoga) có nghĩa thi dĩ khốc hình sắc thân với đủ mọi phương thức tu tập, giống như là bò (Ngưu Hành Giả), hoặc chó (Cẩu Hành Giả); hoặc thực hành theo Nhiệt Tâm Tế Hoạt Dục Lạc (Kāmasukkhallikānuyoga) có nghĩa tự phụng dưỡng cho mình được thụ hưởng thỏa mãn những sự lạc thú thể theo sự duyệt ý của mình, và chẳng cho có bất luận một điều nào đến để quấy nhiễu cản trở được.

Việc thực hành như đã vừa đề cập ở tại đây; với việc thực hành trong đường lối Thế Tục ở chỗ chẳng có liên quan với những Ác Hạnh đấy, thì thường chỉ làm cho tạm thời được thoát khỏi sự khổ đau thôi.  Còn việc thực hành ở chỗ có liên quan với Ác Hạnh đấy, thì trong khoảng thời gian tạo tác vẫn chưa trổ sinh quả báo thì cũng có cảm nhận y như thể với sự hiện hữu của an lạc; tuy nhiên một khi hành động tạo tác đấy trổ sinh quả báo rồi, thì người ấy ắt hẳn phải đón nhận sự khổ đau gia bội lên rất nhiều.  Ứng hợp với Bậc Đại Sư đã có lập ý trình bày để rằng:

Madhūva maññati bālo              Yāvapāpaṃ na paccati

Yadā ca paccatipāpaṃ               Bālo dukkhaṃ nigacchati

Người ngu nghĩ là ngọt              Khi Ác chưa chín muồi

Ác Nghiệp chín muồi rồi             Người ngu chịu khổ đau

Suốt trọn thời gian nào, một khi hành động Ác Nghiệp Lực vẫn còn chưa trổ sinh quả báo, thì trong khoảng thời gian ấy người ngu thường có sự hiểu biết ở trong hành động Ác Nghiệp Lực của mình được ví như mật ong, tức là có sự vui thích hài lòng ở trong hành động ấy.  Thế nhưng bất luận khi nào hành động Ác Nghiệp Lực của mình đã trổ sinh quả báo rồi, thì trong thời gian ấy bọn người ngu ắt hẳn phải bị tiếp xúc sự thống khổ cực cự đại.

 

Khi Ác Nghiệp chưa chín muồi,

Người ngu lầm tưởng an vui mật đường.

Đến khi quả chín lẽ thường,

Người ngu đón nhận chán chường khổ đau. (P. C. 69)

 

+  Còn việc thực hành ở trong đường lối Đạo Pháp chỗ có liên quan với Xả Thí, Trì Giới, và An Chỉ Tu Tập thì thường được thoát khỏi sự khổ đau trong suốt trọn thời gian ấy; hoặc được thoát khỏi suốt trọn cả ngày, cả tháng, cả năm cũng có; hoặc được thoát ra khỏi cả một kiếp sống, cả hai hoặc ba kiếp sống cũng có; và chẳng phải đã dứt khoát được thoát khỏi hết tất cả. Vả lại khổ đau đã được thoát khỏi suốt trọn thời gian ấy, đặc biệt chỉ là thoát khỏi với thể loại khổ đau cá biệt liên quan với việc Lão Mại và Bệnh Hoạn thôi, còn về khổ đau liên quan với việc Sinh và Tử thì ắt hẳn vẫn còn chưa được thoát khỏi vậy.  

+  Người đã thực hành theo Nhiệt Tâm Tự Tu Tập Khổ Hạnh với kỳ vọng rằng một khi đã thanh lọc cho tận diệt hết Phiền Não rồi, thì trong kiếp sống sau sẽ được đón nhận sự an lạc, thụ hưởng Thiên Sản ở trong Cõi Thiên Giới, và sẽ thoát khỏi những sự khổ đau mà tất cả mọi con người đang phải tiếp xúc. Sự kỳ vọng của nhóm người này ứng hợp với tà vọng tưởng, bởi vì chẳng những sẽ phải đón nhận sự khổ đau sinh khởi từ ở nơi thi dĩ khốc hình sắc thân ngay trong kiếp sống này chỉ bấy nhiêu đấy không thôi, mà một khi đã tử vong lìa khỏi kiếp sống này đi rồi, thì xác tín rằng sẽ còn phải tiếp tục thụ lãnh sự thống khổ cực kỳ nghiêm trọng ở trong Cõi Địa Ngục, bởi do đã nương vào Tà Kiến của chính tự mình vậy.

+  Người đã thực hành theo Nhiệt Tâm Tế Hoạt Dục Lạc với sự hiểu biết rằng đời sống hiện hành của con người ta đây nếu nhỡ như có bất luận một điều nào đi đến để làm thành chướng ngại vật hòng cản trở đối với việc tầm cầu những sự an vui lạc thú thể theo sự duyệt ý của mình, thế thì thường sẽ làm cho phát sinh lên sự sầu bi ưu não ở trong tâm thức, và không thể nào thoát khỏi sự khổ đau.  Bởi do thế mới cần phải nỗ lực tầm cầu với biết bao phương pháp để sẽ dắt dẫn sự an vui lạc thú cho đến với mình, và cũng để cho sự sầu bi ưu não ấy không có thể khởi sinh lên được.  Một khi tâm thức đã được an vui trong kiếp sống này rồi, thì sẽ thoát khỏi sự Khổ Thân và Khổ Tâm; và đến kiếp sống sau cũng lại được tiếp tục đón nhận sự an vui ở trong Cõi Nhân Loại hoặc ở Cõi Thiên Giới thêm lần nữa vậy.  Khi có sự hiểu biết như vậy, thì cũng đã nỗ lực tầm cầu những vật dục cho đi đến để làm thỏa mãn thể theo sự duyệt ý của bản thân. Việc thực hành như vậy, thì có một vài người cũng đã được đón nhận sự thành tựu, tức là có sự mảng vui thích ý trong các Cảnh Dục Trần suốt trọn kiếp sống này; vả lại cũng chẳng có bất luận một điều nào đi đến để làm thành chướng ngại vật hầu cản ngăn được cả.  Tuy nhiên có một vài người cũng có thực hành nhưng không được suôn sẻ, bởi do có người khác đi đến cản ngăn liên quan với tài sản của cải, vàng bạc cũng có; hoặc do dính líu với bệnh hoạn tai ương bức bách hành hạ cũng có. Với những thể loại này đã làm cho tâm trí của người ấy trái lại có sự khổ sở ưu não khởi sinh lên lần nữa; và hậu quả cuối cùng khi tầm cầu con đường cứu vãn thì đã không có được, chỉ có thể đi đến hủy diệt sinh mạng của mình, hoặc có thể có người khác đi đến cản ngăn.  Thế nhưng cho dù như thế nào, việc thực hành ở thể loại Nhiệt Tâm Tế Hoạt Dục Lạc đây, sẽ làm cho được thành tựu suôn sẻ hoặc không được suôn sẻ đi nữa, thì hậu quả cuối cùng khi tử vong lìa khỏi kiếp sống này đi rồi, cũng phải bị thụ lãnh sự đau khổ ở trong Cõi Khổ Thú bởi do nương vào sự tham ái, sự si mê và sự tà kiến ấy vậy.

Tóm lại, việc thực hành ngõ hầu kỳ vọng sẽ cho được thoát khỏi khổ đau hiện hành trong đường lối Thế Tục; và việc thực hành ở những thể loại Nhiệt Tâm Tự Tu Tập Khổ Hạnh, Nhiệt Tâm Tế Hoạt Dục Lạc đây, ở phần đa số là việc thực hành của nhóm Ngu Muội Phàm Phu (Andhaputhujjana).  Còn việc thực hành ở những thể loại thực hiện Xả Thí, Trì Giới, Tu Tập An Chỉ đây, ở phần đa số là việc thực hành của nhóm Mỹ Hảo Phàm Phu (Kalyāṇaputhujjana).  Tuy nhiên những thể loại thực hành này cũng chẳng phải làm thành đạo lộ để sẽ thanh lọc cho tận diệt hết Phiền Não, và rồi cho đạt đến sự diệt tắt khổ đau một cách xác thực được.  Vả lại sự việc là như vậy cũng bởi vì đích thị chính những hạng người này chẳng có hiểu biết ở trong việc thực hành để làm thành đạo lộ cho đạt đến sự diệt tắt một cách kiên quyết hết tất cả mọi khổ đau.

Điều thực hành để làm thành đạo lộ cho đạt đến sự diệt tắt hết mọi khổ đau, đấy chính là việc tiến tu Bát Chi Đạo hữu quan với Tứ Niệm Xứ, và chỉ có ngần ấy thôi.  Còn ngoài ra của việc thực hành này rồi, chả là việc thực hành ấy sẽ được thực hiện một cách hoàn toàn vất vả khổ sở đi nữa, hoặc sẽ là vi tế tinh lương như thế nào đi nữa, hoặc sẽ sử dụng thời gian thực hành lâu dài bằng chừng nào đi nữa; tất cả những điều ấy cũng chẳng phải làm thành đạo lộ để sẽ thanh lọc cho tận diệt hết Phiền Não, và rồi sẽ đạt đến sự diệt tắt hết tất cả sự khổ đau.  Có nghĩa là cần nên ghi nhớ rằng việc thực hành và sự kiên trì đối với việc thực hành đấy phải luôn được thường xuyên, vả lại cũng cần xác tín rằng ấy là của mình và để sẽ làm thành đạo lộ chân chánh cho chính mình.

Với lý do này, Đại Chú Giải Sư Buddhaghosa mới trình bày để ở trong bộ Chú Giải Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga Atthakatha) nói rằng:

Yathābhūtaṃ ajānantā              Suddhikāmāpi ye idha

 Visuddhiṃ nādhigacchanti                Vāyamantāpi yogino

Hành Giả là bậc đã kết hợp với sự nỗ lực tinh cần trong việc tiến tu tất cả những thể loại tu tập, cho dù đã có sự kỳ vọng đạt sự thanh tịnh ở trong Giáo Pháp của Bậc Chánh Đẳng Giác và đã có sự nỗ lực tinh cần thực hành theo đi nữa; tuy nhiên lại bất liễu tri trong Chánh Đạo thể theo Pháp Chân Lý, thế thì các bậc hành giả ấy ắt hẳn không thể nào thành đạt sự thanh tịnh được.

Thế nhưng dù sao đi nữa, tất cả những hạng người ấy vẫn cứ rủ nhau thực hành theo các học thuyết tín ngưỡng của mình, cũng với chủ tâm sẽ cùng nhau đạt đến sự diệt tận hết tất cả các sự đau khổ.  Tuy nhiên các sự đau khổ ấy lại không thể nào được diệt tận thể theo sự kỳ vọng, mà trái lại càng khởi lên trầm trọng hơn nữa. Hoặc chẳng là như thế, thì việc sinh lão bệnh tử hiện hữu trong Vòng Luân Hồi ấy vẫn cứ kéo dài mải bất khả cùng tận. Tất cả sự việc này, là cũng do bởi một vài nhóm người ở trong Đạo Giáo của Đức Phật, thế nhưng lại chẳng có một sự sở nguyện nào về bất luận một trong những thể loại thuộc Chánh Đẳng Giác Trí, Độc Giác Trí, Chí Thượng Thinh Văn Giác Trí, Đại Thinh Văn Giác Trí; luôn cả có sở nguyện cho được thoát khỏi khổ đau và cho được chứng đạt đến Níp Bàn đơn nhất chỉ một lần một. Như thốt lên lời sở nguyện rằng Idaṃ me puññaṃ āsavakkhayaṃ vahaṃ hotu - Do Quả Phước Báu này xin cho được diệt tận Lậu Hoặc. Tuy nhiên vị hành giả ấy cũng vẫn có sự duyệt ý thực hành đơn nhất chỉ có Xả Thí, Trì Giới, cùng với An Chỉ Tu Tập, và chẳng có thực hành cho chứng đạt đến Chi Đồ Đạo ở trong đạo lộ của cả Tứ Niệm Xứ; chính bởi do thế việc thực hành như vậy cũng vẫn được tính kể là vẫn đang hiện hành với mãnh lực Tham Ái.  Với lý do này, vị hành giả thực hành ở những thể loại này mới vẫn còn phải bị sinh lão bệnh tử ở trong Vòng Luân Hồi thêm nhiều nữa với thời gian lâu dài; quả là đối nghịch với sự kỳ vọng của chính mình.

+  Người đã thực hành theo Nhiệt Tâm Tự Tu Tập Khổ Hạnh đấy, đã thực hành hiện hành với mãnh lực Tà KiếnSi Mê; chính vì thế mới trổ sinh quả báo cho đi tái sinh ở trong Cõi Địa Ngục. Tuy nhiên vị hành giả ấy cũng vẫn không tự cảm nhận được rằng việc thực hành như vậy chẳng phải là đạo lộ để sẽ thanh lọc Phiền Não và sẽ đạt đến sự diệt tắt khổ đau.

+  Còn người đã thực hành thể loại Nhiệt Tâm Tế Hoạt Dục Lạc đấy, thì chẳng phải chỉ là người chấp thủ những học thuyết tín ngưỡng khác để sẽ thực hành như vậy, mà ngay cả chấp thủ vào Đạo Giáo của Đức Phật cũng có thực hành như nhau.  Chẳng hạn như với người chẳng thấy sự lợi ích ở trong việc thực hiện Xả Thí, Trì Giới, Tu Tập; có quan điểm rằng sự an lạc hữu quan với Níp Bàn thì chẳng có chi là đặc biệt cả, mà đích thị chính là ở trong khoảng thời gian vẫn còn sinh mạng đây, chúng ta có sự kỳ vọng mong mỏi điều chi, hoan hỷ duyệt ý với điều chi thì vẫn cứ thực hành theo sự duyệt ý của mình; đại loại như là mong mỏi sẽ trông thấy điều chi thì cứ việc trông thấy, mong mỏi sẽ lắng nghe điều chi thì cứ việc lắng nghe, mong mỏi sẽ ăn vật thực chi thì cứ việc ăn, mong mỏi sẽ ngủ nghỉ thì cứ việc ngủ nghỉ, mong mỏi sẽ đi đâu thì cứ việc đi, mong mỏi sẽ làm điều chi thì cứ việc làm, mong mỏi sẽ nói điều chi thì cứ việc nói, v.v. ai sẽ là như thế nào thì cũng vẫn cứ mặc kệ. Đích thị chính việc tự thực hành thể loại này, được gọi là thực hành cho thoát khỏi khổ đau, cho được đón nhận sự an lạc; bởi do thế việc thực hành như vậy mới hiện hành với mãnh lực của Tham Ái, Tà Kiến, Si Mê; ắt hẳn trổ sinh quả báo cho người ấy phải đi tái sinh ở một trong những Cõi Thống Khổ. Vả lại người ấy cũng chẳng có tự cảm nhận rằng việc thực hành như vậy thì chẳng phải là đạo lộ để sẽ thanh lọc Phiền Não và cho đạt đến sự diệt tắt khổ đau.

Với lời giải thích như đã vừa đề cập ở tại đây, đó là việc giải thích trong sự bất liễu tri đạo lộ làm cho chứng đạt đến sự diệt tắt Khổ Đau (Bất Tri Đạo Đế).

 

  1. Bất Tri Quá Khứ (Pubbante añāṇaṃ): Bất liễu tri về Uẩn, Xứ, Giới ở trong Thời Kỳ Quá Khứ, đó là:

          Câu nói rằng “Uẩn, Xứ, Giới ở trong Thời Kỳ Quá Khứ” đấy, là nói theo Dĩ Pháp Bản Nguyện.  Một khi nói theo Dĩ Nhân Bản Nguyện thì đích thị chính là tất cả Chúng Hữu Tình đã từng Sinh và Tử ấy vậy. Bởi do thế, trong điều nói rằng Pubbante añāṇaṃ đây, là cũng lập ý đến “bất tự liễu tri bản thân hoặc tha nhân đã từng tái sinh thành Nhân Loại, hoặc Chư Thiên cũng có, hoặc Phạm Thiên cũng có, hoặc Hữu Tình Khổ Thú cũng có; thế nhưng đối với ở trong kiếp sống kế tiếp thì nhận biết rằng sẽ còn phải tái sinh lại nữa.”  Chẳng hạn như có người có quan điểm rằng tất cả Chúng Hữu Tình có Thượng Đế là đấng Tạo Hóa đã sáng tạo ra; chính vì thế một khi tất cả Chúng Hữu Tình đã mệnh chung rồi, thì sẽ phải đi tái sinh theo mệnh lệnh của Đấng Thượng Đế lại thêm lần nữa.

 

  1. Bất Tri Vị Lai (Aparante añāṇaṃ): Bất liễu tri về Uẩn, Xứ, Giới ở trong Thời Kỳ Vị Lai, đó là:

Uẩn, Xứ, Giới ở Thời Kỳ Vị Lai tức là sự làm thành Nhân Loại, Chư Thiên, Phạm Thiên và Hữu Tình Khổ Thú tiếp nối từ ở nơi kiếp sống này. Bởi do thế, trong điều nói rằng Aparante añāṇaṃ đây, là cũng lập ý đến người có quan điểm rằng “tự bản thân hoặc tha nhân một khi đã mệnh chung lìa khỏi kiếp sống này rồi, thì không còn phải tiếp tục đi tái sinh lại nữa.” Tuy nhiên lại có niềm xác tín rằng tất cả Chúng Hữu Tình ắt hẳn đã có từng sinh ở trong kiếp sống trước.  Nhóm người có quan điểm như vậy, thì đã có rất nhiều học thuyết tín ngưỡng với nhau, ngay cả người đã chấp thủ vào Đạo Giáo của Đức Phật có cùng quan điểm như vậy cũng vẫn có.  Những hạng người này bất xác tín rằng một khi đã mệnh chung rồi, thì sẽ phải tiếp tục còn đi tái sinh lại nữa; tuy nhiên lại xác tín rằng đã từng có tái sinh ở trong kiếp sống trước, bởi do dựa vào sự việc đã từng hội kiến với bậc có được Túc Mạng Minh ở trong việc truy niệm kiếp sống ấy vậy.

 

  1. Bất Tri Quá Khứ Vị Lai (Pubbantāparante añāṇaṃ): Bất liễu tri về Uẩn, Xứ, Giới ở trong Thời Kỳ Quá Khứ và Vị Lai, đó là:

Ấy chính là sự làm thành Nhân Loại, Chư Thiên, Phạm Thiên và Hữu Tình Khổ Thú đã từng có tái sinh ở trong thời Quá Khứ và sẽ còn phải tiếp tục đi tái sinh ở trong kiếp sống kế sau. Bởi do thế, trong điều nói rằng Pubbantāparante añāṇaṃ đây, là cũng lập ý đến “người bất tự liễu tri bản thân hoặc tha nhân đã từng có tái sinh và sẽ còn phải tiếp tục đi tái sinh ở trong kiếp sống kế sau”.  Nhóm người có quan điểm như vậy, thì cũng đã có rất nhiều học thuyết tín ngưỡng tương tự như nhau, là do bởi nhóm người này không từng được tiếp thụ việc nghiên cứu học hỏi ở trong Kinh Tạng và Vô Tỷ Pháp Tạng; vả lại cũng không từng thực hành Minh Sát Nghiệp Xứ, luôn cả cũng vẫn chưa từng hội kiến với bậc có được Túc Mạng Minh ở trong việc truy niệm kiếp sống.

 

  1. Bất Tri Y Thứ Liên Quan Tương Sinh (Idappaccayatāpaṭiccasamup pannesu dhammesu añāṇaṃ): Bất liễu tri ở trong Danh Sắc sinh khởi lên do bởi nương vào tác nhân làm cho khởi sinh thể theo Phương Cách Liên Quan Tương Sinh, đó là:

Sắc thân của tất cả Chúng Hữu Tình có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, v.v. và việc trông thấy, việc được lắng nghe, được ngửi, nếm vị, xúc chạm; với tất cả những thể loại này đều toàn là Quả phát sinh từ ở Nhân mà ấy chính là việc tác hành với Thân, Ngữ, Ý ở cả hai phía Thiện và Bất Thiện đã làm thành Nhân cũVô Minh, Ái Dục làm Căn Nguyên. Và do bởi nương vào chỗ có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, việc trông thấy, việc được lắng nghe v.v. vả lại cũng có việc tác hành với Thân, Ngữ, Ý ở cả hai phía Thiện và Bất Thiện khởi sinh lên lần nữa đã làm thành Nhân mới Ái Dục, Vô Minh làm Căn Nguyên; và hơn thế nữa đã làm cho sắc thân cùng với việc trông thấy, việc được lắng nghe v.v. được gọi với nhau rằng là “người ấy, người này” làm thành Quả lại tiếp tục khởi sinh lên lần nữa. Nhân và Quả như đã vừa đề cập đến ở tại đây, một khi trình bày thể theo Phương Cách Liên Quan Tương Sinh, có nghĩa các việc tạo tác làm thành Nhân cũ đấy, tức là Vô Minh, Hành, Ái Dục, Chấp Thủ, và Nghiệp Hữu; còn tất cả Chúng Hữu Tình và việc trông thấy, việc được lắng nghe v.v. làm thành Quả sinh khởi lên đấy, là Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, và Thọ. Việc tạo tác với Thân, Lời, Ý của tất cả Chúng Hữu Tình làm thành Nhân mới đấy, là Ái Dục, Chấp Thủ, Nghiệp Hữu, Vô Minh, và Hành; còn tất cả Chúng Hữu Tình với việc trông thấy, việc được lắng nghe v.v. sẽ làm thành Quả sinh khởi nối tiếp đấy, tức là Thức, Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, và Thọ.

Sự hiện hành của tất cả Chúng Hữu Tình như đã vừa đề cập đến ở tại đây, một khi thẩm sát cũng sẽ trình bày cho được thấy rằng chẳng có chi ngoài ra Pháp làm thành Nhân Pháp làm thành Quả cả, và nương tựa lẫn nhau để cùng sinh khởi chỉ ngần ấy thôi. Thế nhưng với hạng Ngu Muội Phàm Phu (Andhaputhujjana), là người chẳng có Trí Tuệ để nhìn thấy được điều ấy, và ắt hẳn sẽ bất liễu tri đến sự hiện hành của tất cả Chúng Hữu Tình thể theo Liên Quan Tương Sinh như đã vừa đề cập đến ở tại đây; trái lại hiểu biết với nhau rằng tất cả Chúng Hữu Tình đang hiện bày hằng mỗi ngày ở trong Thế Gian này, là đã được sinh khởi cũng do bởi Thượng Đế là đấng Tạo Hóa đã kiến tạo ra.  Một vài nhóm người cũng có sự hiểu biết rằng chẳng có Nhân Quả chi cả, và tất cả Chúng Hữu Tình đã được sinh khởi là cũng do bởi có người Mẹ người Cha mà ra vậy thôi. Đích thị chính là sự bất liễu tri trong Nhân Quả từ ở sự hiện hành của tất cả Chúng Hữu Tình thể theo Liên Quan Tương Sinh đây, nên đã được gọi tên là Bất Tri Y Thứ Liên Quan Tương Sinh (Idappaccayatāpaṭiccasamuppan nesu dhammesu añāṇaṃ).

 

Lại nữa, Vô Minh có thực tính bưng bít, không cho phát sinh lên sự hiểu biết về Chân Lý, đã được chia ra thành nhiều phân loại với nhau như sau:

  1. Một vài hạng người bất liễu tri rằng việc tạo tác như thế này là tịnh hảo, là Thiện; việc tạo tác như thế này là xấu xa, là Bất Thiện; bởi do mãnh lực từ nơi Vô Minh đã bưng bít để không cho được hiểu biết. Bởi do thế, hạng người này mới táo bạo đến mức liều lĩnh tạo tác trong những Ác Hạnh một cách chẳng có ý thức và chẳng nể sợ tàm quý chi cả. Thể loại Vô Minh này thuộc loại Vô Minh ở phần đại đa số.
  2. Một vài hạng người liễu tri việc tạo tác như thế này là tịnh hảo, là Thiện; như thế này là xấu xa, là Bất Thiện; bởi do thế hạng người này một khi Bất Thiện khởi sinh lên thì cũng có khả năng kiềm chế, và không cho xâm lấn đến Thân, Lời; thế rồi chuyển đổi tâm thức và tác hành hành động ấy cho thành Thiện khởi sinh lên. Vô Minh của hạng người này được sắp thành loại Vô Minh ở phần nhiều.
  3. Bậc đã thành tựu viên mãn Quả vị Thất Lai, Nhất Lai, Bất Lai; và đã được xứng danh là bậc liễu minh Tứ Thánh Đế; tuy nhiên vẫn chưa tiệt diệt hết cả Vô Minh. Bởi do thế, Vô Minh của những bậc Thánh Nhân này là Vô Minh ở phần cuối cùng.

Bậc đã tiệt diệt hết cả Vô Minh thì chỉ có duy nhất là Bậc Vô Sinh; bởi do thế việc bưng bít không cho hiểu biết thể theo sự việc thành Chân Lý của Vô Minh đây, chỉ mới không có hiện hữu đối với tất cả Bậc Vô Sinh. Tuy nhiên nếu giả như sẽ vấn hỏi rằng Bậc Vô Sinh một khi đã không còn có Vô Minh thì cũng có khả năng liễu tri hết tất cả mọi sự việc hay không ?  Giải đáp rằng “Chẳng phải là như thế !”  Việc liễu tri của Bậc Vô Sinh thì cũng phải tùy thuộc vào năng lực của Trí Tuệ.  Nếu là Trí Tuệ của Bậc Chánh Đẳng Giác thì toàn tri diệu giác chẳng có dư sót.  Nếu là Trí Tuệ của Bậc Độc Giác thì chỉ có liễu tri sự hiện hành của Danh Sắc ở phần Nghĩa Vị (Attharasa), còn đối với sự liễu tri ở trong thực tính sự hiện hành của Danh Sắc thể theo Pháp Vị (Dhammarasa) ở phần Pháp Học (Pariyatti) thì không thể hiểu biết được.  Nếu là Trí Tuệ của Bậc Chí Thượng Thinh Văn Giác, Đại Thinh Văn, thì thường liễu tri được cả hai Nghĩa Vị và Pháp Vị, tuy nhiên không thể thấu hiểu bằng với Trí Tuệ của Bậc Chánh Đẳng Giác.

Tóm lại, cho dù Bậc đã thành tựu viên mãn thành Bậc Vô Sinh và đã đoạn tận Vô Minh đi nữa, thế nhưng nếu nhỡ như không phải là Bậc Vô Ngại Giải Giả (Paṭisambhidā patta) và không có được học hỏi ở trong Tam Tạng và Chú Giải, thì cũng không thể nào thấu hiểu được ở trong Pháp Học. Vả lại cho dù sẽ có được thấu hiểu ở trong Pháp Học một cách tốt đẹp đi nữa, tuy nhiên dứt khoát là cũng không có khả năng để liễu tri đến tính khí của hết tất cả Chúng Hữu Tình Khả Thuần Phục một cách thấu đáo được; vì lẽ có được việc hiểu biết như vầy, là không thuộc Phạm Vi (Visaya – Lãnh Vực) của tất cả Chúng Thinh Văn, mà duy nhất chỉ là thuộc phạm vi của Bậc Chánh Đẳng Giác ngần ấy thôi.  Và trong sự việc tất cả các Bậc Vô Sinh không thể liễu tri cùng khắp hết cả, cũng chẳng phải là do bởi Vô Minh đã bưng bít không cho được hiểu biết, chẳng là do bởi năng lực của Trí Tuệ không được đầy đủ thôi.  Chẳng hạn như một người chẳng trông thấy một vật thể ở nơi xa trong thời gian giữa ban ngày. Việc chẳng được trông thấy đây, cũng chẳng phải là do bởi bóng tối bưng bít che khuất lấy, mà trái lại chính là do bởi năng lực của thị lực chẳng được đầy đủ.  Điều này như thế nào, thì Bậc Vô Sinh không có khả năng để liễu tri hết tất cả, là cũng do bởi năng lực từ nơi Trí Tuệ không được đầy đủ như đã vừa đề cập đến cũng dường như thế ấy.

Việc bưng bít của Vô Minh ở chỗ bất liễu tri thể theo Chân Lý thì cũng chỉ hiện hữu vỏn vẹn với tám thể loại, đó là: cả Tứ Đế, và Quá Khứ, Vị Lai, Quá Khứ và Vị Lai, Liên Quan Tương Sinh chỉ ngần ấy thôi.  Còn việc bất liễu tri ở trong các câu chuyện khác mà bất hữu quan với Vô Minh, thì như có kiểu mẫu tích truyện điển hình để trình bày cho được thấy như sau:  Trưởng Lão Sāriputta là Bậc có Trí Tuệ thù thắng hơn tất cả các Bậc Thinh Văn, chỉ ngoại trừ Bậc Chánh Đẳng Giác ra thôi, thì chẳng có một ai có được Trí Tuệ để sánh bằng; thế mà cũng vẫn từng sai trật ở trong câu chuyện chỉ bảo Nghiệp Xứ cho đối với nhóm Chư Tỳ Khưu môn đồ của Ngài.  Sẽ nói đến là Ngài có sự hiểu biết rằng nhóm Chư Tỳ Khưu trẻ này đang ở chạn tuổi thanh xuân, vì thế tâm trí sẽ xiêu ngã hướng theo ở trong Cảnh Dục Trần. Khi đã là như vậy, Ngài đã chỉ bảo cho thẩm sát Bất Tịnh Nghiệp Xứ (Asubhakam maṭṭhāna).  Nhóm Chư Tỳ Khưu đã nỗ lực thẩm sát Bất Tịnh Nghiệp Xứ này suốt trọn cả bốn tháng, và cũng chẳng có gặt hái bất luận một kết quả nào cả, ngay cả điềm trẫm triệu cũng chẳng có hiện bày; chả vì Nghiệp Xứ đây chẳng ăn khớp với tính nết của mình.  Trưởng Lão Sāriputta mới bèn dắt dẫn đi đến tác bạch với Đức Thế Tôn cho được biết hết mọi sự việc. Đức Thế Tôn mới liền biến hóa ra một đóa hồng liên cho nhóm Chư Tỳ Khưu này thẩm thị, vì lẽ Ngài đã liễu tri ở trong tính khí của nhóm Chư Tỳ Khưu ấy đã từng có tái sinh làm thợ kim hoàn đến năm trăm kiếp sống; bởi do thế, đóa hồng liên này mới làm thành Nghiệp Xứ vừa thích hợp với tính khí.  Ngài đã biến hóa cho từng mỗi cánh hoa đã phải héo dần xuống, mỗi lần một ít và như thế từng tí một, để cho thực tính ở phần Vô Thường có được hiện bày; và chính trong cùng một ngày ấy, thì nhóm Chư Tỳ Khưu ấy đã thành tựu viên mãn thành Bậc Vô Sinh Lậu Tận (Arahantakhῑṇāsava). Dẫn chứng tích truyện này để làm thành điều trình bày cho được thấy rằng Bậc đã hoàn toàn tiệt diệt Vô Minh đi rồi, thế nhưng không hẳn đã là tường tri và thấu triệt ở trong tất cả mọi sự việc sự tình, và cũng chẳng phải là do Vô Minh bưng bít che khuất lấy, mà đích thị chính do bởi năng lực Trí Tuệ không được tròn đủ, như đã vừa đề cập ở tại đây rồi vậy.

 

TRÌNH BÀY TRẠNG THÁI, PHẬN SỰ, SỰ THÀNH TỰU

VÀ NHÂN CẦN THIẾT CỦA VÔ MINH

 

  1. Bất Tri Trạng Thái (Añāṇalakkhaṇā): Có sự bất liễu tri làm thành trạng thái, hoặc làm thành đối nghịch đối với Trí Tuệ.
  2. Si Độn Phận Sự (Sammohanarasā): Thường luôn làm cho Pháp phối hợp với mình và người đang khởi sinh si mê có sự lầm lạc hoặc mê mờ tăm tối, làm thành phận sự.
  3. Yểm Cái Thành Tựu (Chādanapaccupaṭṭhānā): Là Pháp chủng bưng bít che khuất thực tính đang hiện hữu ở trong các Cảnh ấy.
  4. Lậu Hoặc Nhân Cận (Āsavapadaṭṭhāna): Có ba Lậu Hoặc làm thành Nhân cận lân (loại trừ chính tự mình).

 

HÀNH  (SAṄKHĀRA)

 

Từ ngữ Saṅkhāra (Hành) có ý nghĩa Pháp tác hành làm cho Pháp Quả sinh khởi; như có câu Chú Giải trình bày rằng: Saṅkhataṃ saṅkharoti abhisaṅkharontῑti = Saṅkhārā - Những thể loại Pháp chủng nào thường tác hành một cách trực tiếp Pháp Hữu Vi (Saṅ khatadhamma) cho làm thành quả báo; bởi do thế gọi tên những thể loại Pháp chủng ấy là Hành. Tức là Tư Tâm Sở trong Bất Thiện và Thiện Hiệp Thế.

Hoặc một trường hợp khác:  Saṅkhataṃ kāyavacῑmanokammaṃ abhisaṅkharonti etehῑti = Saṅkhārā - Tất cả Chúng Hữu Tình thường tác hành Thân Nghiệp Lực, Ngữ Nghiệp Lực, Ý Nghiệp Lực là Pháp Hữu Vi do bởi những Tư Tâm Sở ấy; bởi do thế Tư Tâm Sở làm thành tác nhân tác hành những thể loại ấy, được gọi tên là Hành.  Tức là Tư Tâm Sở trong Bất Thiện và Thiện Hiệp Thế.

 

Có 6 Thể Loại Hành Làm Thành Quả Của Vô Minh, đó là:

  1. Phúc Hành (Puññābhisaṅkhāra): Tư Tâm Sở Thiện làm người tác hành một cách trực tiếp Dị Thục Quả Thiện Hiệp Thế và Sắc Nghiệp Thiện; là 8 Tư Tâm Sở Đại Thiện và 5 Tư Tâm Sở Thiện Hữu Sắc Giới.
  2. Phi Phúc Hành (Apuññābhisaṅkhāra): Tư Tâm Sở Bất Thiện làm người tác hành một cách trực tiếp Dị Thục Quả Bất Thiện và Sắc Nghiệp Bất Thiện; là 12 Tư Tâm Sở Bất Thiện.
  3. Bất Động Hành (Āneñjābhisaṅkhāra): Tư Tâm Sở Thiện kiên định bất dao động, làm người tác hành một cách trực tiếp Dị Thục Quả Vô Sắc Giới; là 4 Tư Tâm Sở Thiện Vô Sắc Giới.
  4. Thân Hành (Kāyasaṅkhāra): Tư Tâm Sở làm người tác hành cho được thành tựu Thân Ác Hạnh và Thân Thiện Hạnh; là 12 Tư Tâm Sở Bất Thiện, 8 Tư Tâm Sở Đại Thiện hữu quan với Lộ Thân Môn.
  5. Ngữ Hành (Vacῑsaṅkhāra): Tư Tâm Sở làm người tác hành cho được thành tựu Ngữ Ác Hạnh và Ngữ Thiện Hạnh; là 12 Tư Tâm Sở Bất Thiện, 8 Tư Tâm Sở Đại Thiện hữu quan với Lộ Ngữ Môn.
  6. Tâm Hành (Cittasaṅkhāra): Tư Tâm Sở làm người tác hành cho được thành tựu Ý Ác Hạnh và Ý Thiện Hạnh; là 12 Tư Tâm Sở Bất Thiện, 17 Tư Tâm Sở Thiện Hiệp Thế hữu quan với Lộ Ý Môn.

Đối với Tư Tâm Sở Thiện Siêu Thế, một cách xác thực cũng vẫn được gọi tên Puñña (Phước Báu), tuy nhiên không được gọi là Puññābhisaṅkhāra (Phúc Hành), bởi vì không có chức năng để làm cho sinh khởi lên kiếp sống, lên chủng loại là những thành phần thuộc về Vòng Luân Hồi; vả lại đơn nhất chỉ có chức năng hủy diệt các kiếp sống, chủng loại thôi; bởi do thế mới không đem đến trình bày ở trong chỗ này.

[Chú thích:  Từ ngữ Saṅkhāra (Hành) là một danh từ bao hàm nhiều ý nghĩa, và nên được hiểu biết tùy theo từng mỗi đoạn văn. Tại đây, Saṅkhāra Tư Tâm Sở (Cetanā) Bất Thiện, Thiện và Bất Động (Āneñjā – không chuyển động), vốn tạo tác ra Nghiệp Lực dắt dẫn đưa đi tái sinh. Tư Tâm Sở Bất Thiện bao gồm tất cả những Tư Tâm Sở trong 12 Tâm Bất Thiện. Tư Tâm Sở Thiện bao gồm tất cả những Tư Tâm Sở trong 8 Tâm Đại Thiện, 5 Tâm Thiện Thiền Hữu Sắc Giới.  Tư Tâm Sở Bất Động bao gồm tất cả những Tư Tâm Sở trong 4 Tâm Thiện Thiền Vô Sắc Giới.

Saṅkhāra (Hành) là một trong Ngũ Uẩn, là danh từ gọi chung cả 50 Tâm Sở, ngoại trừ hai Tâm Sở Thọ (Thọ Uẩn) và Tưởng (Tưởng Uẩn). Tư Tâm Sở của bốn Tâm Đạo Siêu Thế không được xem là Saṅkhāra (Hành), vì lẽ có chiều hướng diệt trừ Vô Minh. Trí Tuệ (Paññā) là một yếu tố trưởng trội trong những thể loại Tâm Siêu Thế; trong khi đó trái lại Tư Tâm Sở là một yếu tố trưởng trội trong những thể loại Tâm Hiệp Thế. Vô Minh là một yếu tố trưởng trội trong những thể loại Tâm Bất Thiện, cùng lúc đó cũng có ngủ ngầm trong những thể loại Tâm Thiện.  Do đó cả hai – tác hành Thiện Nghiệp Lực Hiệp Thế và tạo tác Bất Thiện Nghiệp Lực – đều được xem là bắt nguồn từ nơi Vô Minh].

 

+ Trình bày các câu Chú Giải nói rằng: Puññābhisaṅkhāra (Phúc Hành) v.v.: Attano santānaṃ punāti sodhetῑti = Puññaṃ - Pháp chủng nào thường thanh lọc Uẩn Giới của mình, bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Puñña (Phước Báu).

Na puññaṃ = Apuññaṃ - Pháp chủng nào thành đối nghịch đối với Phước Báu, bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Tội Lỗi, Xấu Ác (Pāpa).

Na añjatῑti = Aniñjaṃ, Aniñjaṃyeva = Āneñjaṃ - Pháp chủng nào làm thành người kiên trụ bất chuyển động, bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Bất Dao Động (Aniñja); và đích thị chính Pháp chủng bất chuyển động ấy được gọi tên là Bất Động (Āneñja).

Puññañca taṃ abhisaṅkhāro cāti = Puññābhisaṅkhāro - Pháp chủng nào vừa làm Phước Báu, vừa làm người tác hành một cách trực tiếp; bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Phúc Hành.

Apuññañca taṃ abhisaṅkhāro cāti = Apuññābhisaṅkhāro - Pháp chủng nào vừa làm tội lỗi, vừa làm người tác hành một cách trực tiếp; bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Phi Phúc Hành.

Aneñjañca taṃ abhisaṅkhāro cāti = Āneñjābhisaṅkhāro - Pháp chủng nào vừa kiên trụ bất chuyển động, vừa làm người tác hành một cách trực tiếp; bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Bất Động Hành.

Kāyaṃ saṅkhārotῑti = Kāyasaṅkhāro - Pháp chủng nào làm người tác hành từ ở nơi Thân, bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Thân Hành.

Vācaṃ saṅkhārotῑti = Vacῑsaṅkhāro - Pháp chủng nào làm người tác hành từ ở nơi Lời, bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Ngữ Hành.

Cittaṃ saṅkhārotῑti = Cittasaṅkhāro - Pháp chủng nào làm người tác hành từ ở nơi Tâm, bởi do thế gọi tên Pháp chủng ấy là Tâm Hành.

Trong những thể loại Hành làm thành Quả của Vô Minh đấy, thì chỉ riêng với những thể loại Phúc Hành hữu quan với Đại Thiện và Phi Phúc Hành đây, đã được thành tựu với Thân Hành Nghiệp Lực, Ngữ Hành Nghiệp Lực và Ý Hành Nghiệp Lực. Còn những thể loại Phúc Hành hữu quan với Thiện Hữu Sắc Giới và Bất Động Hành đây, thì duy nhất chỉ được thành tựu với Ý Hành Nghiệp Lực.

Phúc Hành được thành tựu với mãnh lực Xả Thí (Dāna), Trì Giới (Sῑla), Tu Tập (Bhāvanā).   Phi Phúc Hành được thành tựu với mãnh lực Thập Ác Hạnh (Duccarita).  Bất Động Hành được thành tựu với mãnh lực từ nơi Tu Tập (Bhāvanā).