Paticcasamuppada 018
THE AUTHOR’S INTRODUCTION
LỜI GIỚI THIỆU CỦA TÁC GIẢ
NAMO BUDDHĀYA
CUNG KÍNH HÀNG CHƯ PHẬT
SIDDHAṂ
THÀNH TỰU VIÊN MÃN
Kīdiso te mahāvīra Abhinīhāro nar’uttama
Với chí nguyện nào mà Bậc Đại Hùng Tối Thượng
Kamhi kāle tayā dhīra Patthitā bodhiṃ uttamā
Bậc Tài Trí Tam Thời Đạt Giác Nguyện Tối Thượng ?
O Buddha, who is endowed with the four kinds of right exertion (*), who is the highest among men and higher than Devas and Brahmās, and who is thus Chief of these three categories of beings ! How should we comprehend your resolve to gain Buddhahood of great glory, that pervades the whole universe extending from the bottom realm of intense suffering to the top realm of Brahmās. Since when has your mind become inclined to achieve the prime laurel of Perfect Self – Enlightenment, which surpasses the Enlightenment of a Private Buddha and the Enlightenment of a Disciple ?”.
Bạch Đức Phật, Ngài là Bậc đã hội túc phúc duyên với Tứ Pháp Nỗ Lực Chính Đáng (*), Ngài là Bậc tối thượng giữa Nhân Loại và cao thượng hơn cả Chư Thiên và Chư Phạm Thiên, và như vậy, Ngài là Bậc Chủ Tể của ba chủng loại chúng hữu tình này ! Chúng con nên lý giải như thế nào về sự quyết tâm của Ngài để hoạch đắc Quả Vị Phật quang vinh vĩ đại, mà đã biến cập toàn bộ vũ trụ đang trải dài từ lãnh địa tận cùng của sự kịch thống đến lãnh địa tột đỉnh của Chư Phạm Thiên. Kể từ khi tâm thức của Ngài đã hữu nguyện vọng để hoạch đắc sự vinh dự hoàn hảo của Sự Tự Giác Ngộ Hoàn Toàn, vốn siêu xuất Sự Giác Ngộ của một vị Độc Giác Phật và Sự Giác Ngộ của một Đệ Tử ?”.
[(*): Right Exertion (Sammappadhāna): the four such exertions are: a. The endeavour to prevent the arising of evil which has not yet arisen, b. The endeavour to put away evil that has arisen, c. The endeavour to bring about the arising of good which has not yet arisen, and d. The endeavour to further develop the good that has arisen.]
[(*): Sự Nỗ Lực Chính Đáng (Chánh Cần): Tứ Pháp Nỗ Lực Chính Đáng là như thế này:
- Sự nỗ lực để trở chỉ (ngăn lại) việc khởi sinh điều tà ác vốn chưa được khởi sinh,
- Sự nỗ lực để thu khởi (ngưng lại) điều tà ác mà đã được khởi sinh,
- Sự nỗ lực để đạo trí (dẫn tới) việc khởi sinh điều thiện vốn chưa được khởi sinh, và
- Sự nỗ lực để suy động (thúc đẩy) việc phát triển điều thiện mà đã được khởi sinh.]
This enquiring note of acclamation was sounded in the sky over the city of Kapilavatthu on the first waning moon of Kason in the year 104 Mahā Era. The background story in brief of this question is narrated below.
Thanh điệu hát thái (reo hò tán thưởng) ái thám sách (ham tìm tòi, thăm dò) này đã vang dội trên khắp cả bầu trời của thành thị Kapilavatthu vào nữa vầng tiền nguyệt khuyết của Tháng Năm trong năm thứ 104 Đại Kỷ Nguyên. Bối cảnh truyện ký được giản ngôn về câu hỏi này đã được giảng ở dưới đây.
The Buddha, the Omniscient One and Lord of the Three Worlds, observed the first rains – retreat (Vassa) in the Deer Park of Isipatana, Vanarasi, in the year 103 Mahā Era. During the retreat, he converted the five ascetics and the group of fifty four friends headed by Yasa, son of a wealthy man, leading them to Arahatship. When the retreat was over, he asked them to disseminate the Dhamma, which is excellent in all three aspects – the beginning, the middle and the end – no two of them going in the same direction. He himself went alone towards the forest of Uruvela to convert the three ascetic Kassapa brothers and their followers, numbering one thousand.
Đức Phật, Bậc Toàn Giác và Đức Thế Tôn của Tam Giới, đã quan sát trong lần an cư tĩnh tâm mùa mưa (An Cư Kiết Vũ) đầu tiên trong Công Viên Nai tại Lộc Dã Viên, thành thị Varanasi vào năm thứ 103 Đại Kỷ Nguyên. Trong mùa an cư tĩnh tâm, Ngài đã cải biến tín ngưỡng năm vị khổ hành giả và một nhóm năm mươi bốn bằng hữu được Yasa dẫn đầu, con trai của một vị trưởng giả giàu có, và đã dẫn đạo họ đến Quả Vị Vô Sinh. Khi mùa an cư tĩnh tâm đã kết thúc, Ngài đã yêu cầu họ truyền bá Giáo Pháp, vốn cực hảo trong cả ba phương diện – sơ thiện, trung thiện và hậu thiện – và không có hai người trong số họ đi cùng một phương hướng. Bản thân Ngài độc hành ra đi hướng đến khu rừng Uruvela để cải biến tín ngưỡng của ba anh em khổ hành giả Kassapa và chúng truy tùy giả của họ, có số lượng một ngàn.
On the way to Uruvela, on reaching Kappāsika grove, the Buddha met with thirty Bhaddavaggiya brothers who were searching an absconding woman; he established them in the lower Paths and Fruitions and made them Ehi Bhikkhus. Then he proceeded alone to Uruvela where he liberated the eldest brother, Uruvela Kassapa, with his five hundred followers from heretical views. He did the same for Nādī Kassapa with three hundred followers and Gayà Kassapa with two hundred followers. Finally, he preached all the one thousand ascetics the Ādittapariyāya Sutta on the stone slab at Gayāsīsa and thereby established them in the Fruition of Ārahatship. And being followed by all the one thousand newly accomplished Ārahats, the Buddha set out on a journey to the city of Rājagaha.
Trên đường đến Uruvela, khi đã đến cụm rừng nhỏ trồng bông vải (Miên Hoa), Đức Phật đã tương ngộ một nhóm ba mươi anh em vui vẻ trẻ trung (Bhaddavaggiya) mà họ đang tìm kiếm một nữ nhân đã đào tẩu; Ngài đã thiết lập họ trong các Đạo Lộ với Quả Vị thấp, và tạo cho họ thành Chư Thiện Lai Tỳ Khưu. Thế rồi, Ngài đã đơn độc tiếp tục đi đến Uruvela và ở nơi đó, Ngài đã giải thoát người anh cả, Uruvela Kassapa cùng với năm trăm truy tùy giả của Ông ấy khỏi những quan điểm dị giáo. Ngài đã làm tương tự như vậy với Nādī Kassapa cùng với ba trăm truy tùy giả và Gayā Kassapa với hai trăm truy tùy giả. Cuối cùng, Ngài đã thuyết giáo cho tất cả một ngàn vị khổ hành giả với Kinh Văn Hỏa Tai Toàn Bộ trên một phiến đá mỏng tại Gayāsīsa, và do đó, đã thiết lập cho họ trong Quả Vị Vô Sinh. Và khi đã được tất cả một ngàn vị Vô Sinh vừa mới được thành đạt theo sau, Đức Phật đã xuất phát một chuyến lữ hành đến thành thị Rājagaha.
The day the Buddha arrived in Rājagaha, he helped King Bimbisāra and Brahmin householders, one hundred and ten thousand in all, with his teaching to reach the state of
Sotapattiphala and another ten thousand Brahmin householders to reach the state of lay devotee established in the Three Refuges. The following day the Buddha accepted Veluvana Monastery generously donated by King Bimbisāra in support of the Buddha’s ministry. It was the first monastery the Buddha had ever accepted and the occasion of the Buddha’s acceptance of the monastery was marked by a great earthquake. From that time onwards the Buddha had taught all those worthy of conversion, who came to him, including those who would eventually become Chief Disciples, Great Disciples and Ordinary Disciples. He did so as though he were dispensing among them medicine for deathlessness.
Ngày Đức Phật đã đến thành thị Rājagaha (Vương Xá), Ngài đã bang trợ Vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) và những Gia Chủ Bà La Môn, tổng cộng một trăm mười ngàn người, với Giáo Huấn của Ngài để đạt đến trạng thái Quả Thất Lai và mười ngàn Gia Chủ Bà La Môn khác để đạt đến trạng thái tín đồ kiền thành được thiết lập trong Tam Quy. Ngày hôm sau, Đức Phật đã tiếp thụ Trúc Lâm Tự Viện được Vua Bimbisāra phụng hiến (cống hiến, kính dâng, kính tặng) một cách khảng khái nhằm để hỗ trợ cho Thánh Chức của Đức Phật. Đó đã là tu đạo viện đầu tiên mà Đức Phật đã từng tiếp thụ và lễ khánh điển trong việc tiếp thụ tu đạo viện của Đức Phật đã được đánh dấu bởi một trận đại địa chấn. Từ thời điểm đó trở đi, Đức Phật đã giáo đạo tất cả những người xứng đáng được quy y, với những người đã đi đến với Ngài, bao gồm cả những người cuối cùng sẽ trở thành Chư Chí Thượng Thinh Văn Đệ Tử Tăng, Chư Đại Thinh Văn Đệ Tử và Chư Thinh Văn Đệ Tử thông thường. Ngài đã làm y như thể Ngài đang phân phát dược phẩm bất tử trong số họ.
While the Buddha was thus busily engaging himself his father King Suddhodana sent nine ministers one after another, each with one thousand men, on a mission to beg the Buddha to return to Kapilavatthu. But they all became Arahats and sent back no information to the King. So the Buddha’s birthmate, the minister Kāludāyī, was sent as the tenth envoy also with one thousand men. Kāludāyī and his men became Arahats, too, and spent their time enjoying the bliss of their spiritual attainment. When the cold season was over and spring came, Kāludāyī made a persuasive supplication to the Buddha in sixty four verses begging the Buddha’s return to the home of his kinsmen. The Buddha then journeyed to the city of Kapilavatthu on the first day after the full moon of Tabaung travelling slowly, covering only one yojana a day, and arrived at Kapilavatthu on the first day after the full moon of Kason in the year 104 Mahā Era.
Trong khi bản thân Đức Phật đang bận rộn với những công việc như vậy, Phụ Vương Suddhodana (Tịnh Phạn Vương) đã lần lượt gửi chín quan đại thần, mỗi vị với một ngàn nam nhân, trong một sứ mệnh khẩn cầu Đức Phật trở về thành thị Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Thế nhưng, tất cả họ đều đã trở thành Chư Vị Vô Sinh và đã không gửi trả lại một tin tức nào về cho Đức Vua. Vì vậy, người bạn sinh cùng ngày với Đức Phật, quan đại thần Kāludāyī đã được gửi đi làm vị sứ giả thứ mười cũng với một ngàn nam nhân. Kāludāyī và những nam nhân của mình cũng đã trở thành Chư Vị Vô Sinh, và họ đã trải qua thời gian của mình để thụ hưởng niềm cực lạc của sự thành tựu tâm linh của họ. Khi mùa giá lạnh đã kết thúc và mùa xuân đã đến, Kāludāyī đã thực hiện một sự khẩn cầu hữu thuyết phục lực đến Đức Phật trong sáu mươi bốn câu kệ cho việc khẩn cầu Đức Phật quay trở về nhà của những thân thích của Ngài. Thế rồi, Đức Phật đã lữ hành trong chuyến du hành một cách chậm rãi đến thành thị Kapilavatthu vào ngày thứ nhất sau trăng tròn của Tháng Tư, mỗi ngày chỉ đi được một Do Tuần, và đã đến tại thành thị Kapilavatthu vào ngày thứ nhất sau trăng tròn của Tháng Năm trong năm thứ 104 Đại Kỷ Nguyên.
The same day, the Sakyan princes welcomed the Buddha and his host of Bhikkhus in a great ceremony and took them to Nigrodhārāma Monastery as they had arranged beforehand. On arrival at the Monastery the Buddha sat in the seat specially prepared for him and remained quietly surrounded by twenty thousand Arahats. The Sakyans who took too great a pride in their high birth thought to themselves: “This Prince Siddhattha is younger than we. He is only a young brother, or a young nephew, or a young grandson of ours”. And puffed up with conceit they urged their younger kinsmen, “You bow in homage to the Buddha, we shall, however, stay behind you”.
Trong cùng ngày, các hoàng tử thuộc đại gia tộc Sakya đã hoan nghênh Đức Phật với đông đảo Chư Tỳ Khưu của Ngài trong một đại lễ và đã đưa các Ngài đến tu đạo viện Nigrodhārāma như họ đã bố trí từ trước. Khi đã đến tại tu đạo viện, Đức Phật đã an tọa trên bảo tọa được chuẩn bị một cách đặc biệt cho Ngài và đã vẫn giữ một cách tịnh tịnh được vây xung quanh bởi hai mươi ngàn Chư Vị Vô Sinh. Những người thuộc đại gia tộc Sakya đã chấp giữ lấy một lòng tự phụ vĩ đại về tư duy hàng thượng đẳng sinh của họ: “Vương tử Siddhattha này trẻ tuổi hơn chúng ta. Ông ấy chỉ là một người em trai, hoặc là một cháu trai, hoặc là một cháu nội trẻ thơ của chúng ta”. Và đã dương dương đắc ý với tính ngã mạn, họ đã lực khuyến (cố gắng khuyến khích) những thân thích trẻ tuổi hơn của họ: “Các người cúi đầu để tỏ lòng tôn kính đến Đức Phật, tuy nhiên, chúng tôi sẽ ở lại phía sau các người”.
The Buddha knew the inner minds of the Sakyan princes swelling with pride of their birth, and thought to himself: “These proud kinsfolk of mine do not realize that they have grown old without accomplishing anything beneficial for themselves. They know nothing about the nature of a Buddha. They know nothing about the power of a Buddha. What if I should display a Buddha’s might by performing the Twin Miracle of water and fire. I will make a jewelled walk in the sky, a platform as broad as the ten thousand universe. And I will walk to and fro on it and pour forth a shower of sermons to suit the temperaments of all those who come to me”. No sooner had he resolved thus than Brahmās and Devas acclaimed their joyous approval.
Đức Phật đã liễu tri những nội tâm của các hoàng tử thuộc đại gia tộc Sakya đang dũng khởi với lòng tự phụ về thượng đẳng sinh của họ, và đã tự khảo lự: “Những thân thích tự hào của Ta đây không nhận thức rằng họ đã cao niên lớn tuổi mà không hoàn thành bất luận điều chi hữu ích cho chính họ. Họ không biết gì hết về thực tính của một vị Phật. Họ không biết gì hết về năng lực của một vị Phật. Điều chi xảy ra nếu như Ta sẽ hiển thị xuất uy lực của một vị Phật qua sự thực hiện Song Đối Kỳ Tích của nước và lửa. Ta sẽ thực hiện một bộ hành tương bảo thạch (khảm đá quý) trên không trung, một vũ đài liêu khoát như là thập thiên vũ trụ. Và Ta sẽ bộ hành qua lại tới lui ở trên đó và trút ra một trận mưa thuyết giáo thích hợp với những tính tình của tất cả những người đến với Ta”. Ngay sau khi Ngài đi đến quyết định như vậy, Chư Phạm Thiên và Chư Thiên đã hoan hô vui mừng tán đồng.
Then the Buddha entered upon the Fourth Jhāna making white (colour) as his object of concentration. On arising from that Jhāna he made a firm resolve that light should spread all over the ten thousand universe. Immediately after that Resolution, all the universe was flooded with light to the great delight of men, Devas and Brahmās. While they were rejoicing, the Buddha rose up in the sky by developing the Supernormal Power through exercise of the Fourth Jhàna. Then he proceeded to perform the Yamaka pātihāriya, the Twin Miracle, which consisted of appearance of flames of fire and streams of water emitted alternatively (1) from the top and bottom of the body, (2) from the front and the back, (3) from the eyes, (4) from the ears, (5) from the nose, (6) from the shoulders, (7) from the hands, (8) from the sides, (9) from the feet, (10) from the fingers, toes and from between one finger and another as well as from between one toe and another, (11) from each hair of the body and (12) from every pore of the body. The emitted fire sparks and water sprays fell amidst the crowds of human and celestial beings as though the Buddha was letting fall the dust from his feet onto their heads. The exhibition of the Twin Miracle with the emission of fire and water alternately from the body of the Buddha created a marvellous spectacle of great splendour which inspired all the Sakyan princes with awe and reverence, moving them to utter words of resounding praise.
Thế rồi, Đức Phật đã bắt đầu tầng Tứ Thiền với đề mục thiền định của mình được thực hiện là màu sắc trắng. Khi đã từ nguồn gốc tầng Thiền ấy, Ngài đã thực hiện một quyết định rằng ánh sáng sẽ được trải rộng ra khắp cả thập thiên vũ trụ. Ngay sau Sự Kiên Định ấy, tất cả vũ trụ đã tràn ngập với ánh sáng dẫn đến niềm khoái cảm to lớn của Nhân Loại, Chư Thiên và Chư Phạm Thiên. Trong khi họ đang hỷ khánh, Đức Phật đã thăng khởi vào không trung qua sự phát triển Năng Lực Siêu Thường thông qua sự vận dụng tầng Tứ Thiền. Thế rồi, Ngài đã tiến hành biểu hiện Song Đối Thần Túc Thắng Trí, Song Đối Kỳ Tích, đã bao gồm sự xuất hiện của nguồn lửa cháy và dòng nước chảy đã phún tủa ra một cách luân phiên hoán chuyển lẫn nhau (1) từ phần trên và phần dưới của sắc thân, (2) từ phía trước và phía sau, (3) từ đôi mắt, (4) từ đôi tai, (5) từ lỗ mũi, (6) từ đôi vai, (7) từ đôi bàn tay, (8) từ hai bên hông, (9) từ đôi bàn chân, (10) từ những ngón tay, các ngón chân và từ giữa mỗi kẽ ngón tay này với ngón tay kia cũng như từ giữa mỗi kẽ ngón chân này với ngón chân kia, (11) từ mỗi sợi tóc của sắc thân, và (12) từ mỗi lỗ chân lông của sắc thân. Tia lửa phún xuất ra và nước phún rơi xuống ở giữa đám đông Chúng Nhân Hữu Tình và Chúng Thiên Hữu Tình y như thể là Đức Phật đang vung rãi bụi vi trần từ đôi bàn chân mình lên trên đầu của họ. Sự triển thị Song Đối Kỳ Tích với sự phún tủa ra lửa và nước một cách luân phiên hoán chuyển lẫn nhau từ kim thân Đức Phật đã kiến tạo một cảnh hùng tráng gây kinh ngạc với sự huy hoàng cực hảo, đã gây ra sự cảm xúc cho tất cả hoàng tử thuộc đại gia tộc Sakya với sự kính úy (kính phục, khâm phục) và lòng tôn kính, đã làm kích động họ phải thốt lên những lời tán tụng vang dội.
After the performance of the Twin Miracle, the Buddha created a jewelled walk of great brilliance which extended from East to West reaching even beyond ten thousand universe. The Buddha walked up and down the jewelled walk and delivered several discourses to Humans and Devas suiting their mental dispositions.
Sau sự biểu hiện Song Đối Kỳ Tích, Đức Phật đã kiến tạo một bộ hành tương bảo thạch (khảm đá quý) với sự tài hoa thù thắng mà được trải dài từ Đông đến Tây thậm chí siêu xuất thập thiên vũ trụ. Đức Phật đã bộ hành lên và xuống trong lộ bộ hành tương bảo thạch (khảm đá quý) và đã giảng thoại nhiều bài diễn giảng đã làm cho Chúng Nhân Loại và Chư Thiên thích hợp với những tâm tính của họ.
At that time, the Venerable Sāriputta, who was residing at Gijjhakuta Hill, Rājagaha, saw (through his Supernormal Power) the whole event (taking place at Kapilavatthu) and thought to himself: “I shall now go to the Buddha and make a request for a complete narration of the life histories of the Bodhisattas and the Perfections they had fulfilled”. Accordingly, he lost no time to gather the five hundred Arahats, who were all his co – residents, and said to them: “Come, we will go. We will pay a visit to the Master and ask him about the past stories of the Buddhas”. Having urged them to accompany him, they all travelled through space by means of Supernormal Power with so fast a speed surpassing that of the wind and the storm. In a moment, the Venerable Sāriputta with the company of Bhikkhus arrived before the Buddha and paid homage to him. Then he uttered the verse,