Table of Contents

NGHIỆP LỰC (KAMMA)

Trình bày tóm lược về Nghiệp tạo tác trong cuộc sống hằng ngày, qua đó cho thấy những Nghiệp trổ sinh quả khổ đau, và Nghiệp trổ sinh Phước Báu.  Ở đây, không chú tâm trình bày đến phần Triết Lý về Nghiệp, cho nên không ghi lại hết tất cả 16 loại Nghiệp Lực, Ví dụ như Cận Tử Nghiệp Lực, Cực Trọng Nghiệp Lực, và những Nghiệp Lực khác.

Nghiệp là chi ?

Nghiệp là chi ? Và vì sao con người tạo Nghiệp Lực ?

Tiếng Pāḷi, Kamma là Nghiệp Lực.

Nghiệp Lực:  Là hành động, lời nói, suy nghĩ, tạo tác qua thân, lời, và ý nghĩ, có tác ý chuẩn xác, hay có tác ý bất chuẩn xác.  Con người tạo Nghiệp Lực do một trong hai tác động, hay nguyên tố sau:

  1. Do tâm muốn, nên dẫn đến ý suy nghĩ, thân hành động, và lời nói. Như vậy gọi là Nghiệp có tác ý chuẩn xác.
  2. Tạo Nghiệp vì do thói quen. Con người tạo ra nghiệp theo thói quen, bản năng, với một tác ý bất chuẩn xác.

Nghiệp Lực còn được hiểu nôm na như là Quả trổ sinh và đang hiện bày, do hành động Bất Thiện hoặc Thiện, đã tạo tác trong quá khứ.  Nghiệp Lực đã trổ sinh thì được gọi là Nghiệp Báo, hay Nghiệp Quả, sẽ được giải thích trong phần Nghiệp Báo.

Ở đây cũng nên ghi nhận Nghiệp được tạo do một trong hai nguyên tố: Tâm tác ý, hoặc thói quen.  Như vậy một người tạo Nghiệp Bất Thiện, hay Nghiệp Thiện là do tâm muốn, hay do thường quen suy nghĩ đến việc Thiện, hay việc Bất Thiện.  Thế nhưng vì sao Tâm lại muốn làm Thiện, hoặc làm Bất Thiện ?  Và vì sao có thói quen làm Thiện, hoặc làm Bất Thiện ?  Tập sách này không chủ đích đi sâu vào Triết Lý Về Nghiệp, nên chỉ xin trả lời ngắn gọn là do tâm tính con người, hoặc thói quen làm Thiện, hoặc làm Bất Thiện.  Có sáu loại Tính như sau: 1. Tính Tham Ái, 2. Tính Sân Hận, 3. Tính Si Mê, 4. Tính Tầm, 5. Tính Tín (Đức Tin), 6. Tính Giác.  

Nghiệp Lực còn được hiểu là hành động tạo tác lặp đi lặp lại, tạo thành một thói quen, hoặc một tập khí.  Thế mà thói quen và tập khí thì rất khó bỏ.  Do vậy Ông Bà ta thường có câu “Đánh chết cái nết cũng không chừa”.  Con người thường hay tạo thói quen, không muốn bỏ thói quen mà chỉ thay đổi từ một thói quen này sang thói quen khác.

Ví dụ: Một người có thói quen hút thuốc.  Vì muốn bỏ thói quen hút thuốc, người ấy nhai kẹo. Lâu ngày thì người ấy bỏ được thói quen hút thuốc, nhưng lại tạo một thói quen mới, là nhai kẹo.

Ví dụ: Một người có thói quen đi xem phim vào cuối tuần.  Thế nhưng nghiệm thấy đi xem phim không có lợi ích, nên chuyển sang đi đến thư viện đọc sách.  Như vậy, sau một thời gian người ấy sẽ tạo ra một thói quen mới, là đi đến thư viện đọc sách và bỏ thói quen cũ, là đi xem phim.

Nghiệp Quá Khứ

Những hành động đã tạo tác trong quá khứ, sai biệt với thời gian hiện tại.  Ví dụ hành động tạo tác ngày hôm qua, tháng trước, năm trước, hay trong một kiếp nào đó trong quá khứ.  Nghiệp Lực trong quá khứ là Nghiệp cũ, đã làm rồi không thay đổi được, không ngăn ngừa được.

Nghiệp Hiện Tại: Những hành động tạo tác qua thân, lời, ý, ngay trong thời hiện tại, và lúc đang tạo Nghiệp, có tác ý chuẩn xác, hay có tác ý bất chuẩn xác.  Nghiệp trong thời hiện tại có thể ngăn ngừa được, nếu con người sống trong chánh niệm tỉnh giác, lúc nào cũng có sự hiểu biết trong mọi hành động tạo tác.  Trong trường hợp này gọi là Câu Sinh Nghiệp.  Nghiệp Lực cũng được nhiều người hiểu nôm na là Quả đang hiện bày do việc Bất Thiện đã tạo ra trong quá khứ.  Quả trổ sinh do Nghiệp Quá Khứ, tác động đến Tâm, lại tạo ra Nghiệp Hiện Tại.  Còn được gọi là một dòng Nghiệp Lực.

Nghiệp Bất Thiện: Là hành động tạo tác qua thân, lời, ý theo một thói quen, bản năng, hoặc có sự tác ý không thiện mỹ, khôn khéo.  Nghiệp Bất Thiện làm nhân cho khởi sinh sự phiền não, điều không an vui trong kiếp sống hiện tại, hay khổ đau trong bốn đường ác Đạo: địa ngục, ngạ quỷ, Atula, súc sinh.  Bất Thiện là những cái chi làm suy giảm, là vụng về, tội lỗi, xấu xa, và cho Quả khổ đau.  Tu tập trong đời sống với tỉnh giác, chánh niệm, có sự biết trong mỗi hành động, lời nói, ý nghĩ để ngăn ngừa Nghiệp Bất Thiện.  Bất Thiện Nghiệp hoặc Ác Nghiệp đều thực hiện trên căn gốc của Tham, Sân, Si.  Do đó nói Tham, Sân, Si là cội gốc khổ đau, phiền não, sinh tử luân hồi trong sáu nẻo, duyên theo dòng Nghiệp Lực và Nghiệp Báo, Quả của Bất Thiện Nghiệp.

Nghiệp Thiện: Là hành động tạo tác qua thân, lời, ý, theo thói quen, bản năng, hoặc có sự tác ý khôn khéo, thiện mỹ.  Nghiệp Thiện làm nhân đưa đến chân thiện mỹ, an lạc, hạnh phúc trong hiện tại, hoặc Quả Người, Trời, Níp Bàn.  Thiện là những chi khôn khéo, khỏe mạnh, tốt đẹp, lợi ích, và cho Quả an vui.

Tu tập trong đời sống với tỉnh giác và chánh niệm, có sự hiểu biết trong từng mỗi hành động, lời nói, ý nghĩ, để phát sinh Thiện Nghiệp.  Nghiệp Thiện là sự tu tập, trau giồi tâm linh, thính Pháp, thuyết Pháp, trau giồi Văn Tuệ, Tư Tuệ, Tu Tuệ, tu tập Thiền Minh Sát, liễu tri Tam Tướng Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, chứng đắc Đạo Quả Níp Bàn, giải thoát sinh tử luân hồi trong Tam Giới.  Thiện Nghiệp được kiến tạo trên căn gốc của vô tham (không tham), vô sân (không sân), và vô si (không si mê).  Ví dụ, người luôn thực hiện xả thí là do tâm vô tham, vô sân mà có sự xả thí.  Người luôn tu tập, thúc liễm thân tâm, chế ngự tham, sân, si, là người có trí, hiểu biết được tham, sân, si là nguồn gốc của bao phiền não, khổ đau.

Cũng có trường hợp Thiện Nghiệp trở thành Bất Thiện Nghiệp và trổ sinh quả khổ đau.

Ví dụ: Một người xa lánh ngũ dục trong xã hội, đến Chùa học Pháp và tu tập, cố gắng thúc liễm thân tâm, chế ngự tham, sân, si, và diệt trừ kiết sử.  Người này làm việc, phụng sự Tam Bảo, trau giồi Tứ Phạm Hạnh là Từ, Bi, Hỷ, Xả phục vụ cho mọi người, hy vọng tạo Quả phước, hổ trợ con đường tu tập.  Đó là Thiện !  Thế nhưng hỡi ơi ! Sao lại có nhiều nghịch cảnh quá ! Cảnh lành thì ít, cảnh dữ thì nhiều, vì đâu phải ai đến Chùa cũng để tu tập.  Thêm nữa, duyên Nghiệp Lực của mỗi người mỗi khác, người đang trả Nghiệp, còn người thì đang tạo tác Nghiệp, cho nên gây ra bao phiền não. 

Nếu gặp được Minh Sư, hảo bằng hữu nhắc nhở, với Chánh Pháp bảo hộ, và cố công nhẫn nại, thân cận với ba điều này thì người ấy sẽ vượt qua, và tăng trưởng con đường tu tập.  Người này biết rằng cảnh lành, hay cảnh dữ, cũng chỉ là cảnh, chúng đến, rồi đi theo điều kiện và định luật của Vô Thường, Vô Ngã.  Người này tu tập giữ tâm cho được an tịnh, thanh lọc phiền não trong tâm, và gặt hái được quả an vui.  Đây là điều quan trọng của người tu tập.  Nếu người này không giữ vững tâm để cho phiền não phát sinh cho quả khổ đau thì không được an vui, và đón nhận quả Bất Thiện.  Từ ban đầu là Thiện sự nhưng cuối cùng dẫn đến Quả khổ đau.  Thế mới biết đường tu, quả thật không phải dễ !

Nguyện cho quý Đạo Hữu bền tâm, vững chí, niềm tin kiên cố, nhẫn nại, chú nguyện, và trí tuệ phát sinh, sớm thành đạt sở cầu, sở nguyện, và Níp Bàn sẽ đến với bạn.

Nghiệp Lực

Nghiệp Lực hay còn được biết là Nghiệp Duyên.  Là mãnh lực, năng lực, nguyên tố thúc đẩy tạo tác Nghiệp, làm cho Nghiệp được thành tựu, trổ sinh, và thọ lãnh Nghiệp báo.   Quả của Nghiệp Quá Khứ, tác động đến tâm, hình thành một thói quen để tạo Nghiệp Hiện Tại, được gọi là một dòng Nghiệp Lực.

Ví dụ: Khi làm một hành động trộm cắp, và làm theo thường quen thì hình thành một thói quen ăn cắp, do dòng Nghiệp Lực này đã thúc đẩy và lôi kéo.  Do vậy Ông Bà ta có câu “Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt”.

Ví dụ: Khi làm việc xả thí nhiều lần và thường xuyên thì tạo thành một thói quen xả thí, thì dòng Nghiệp Lực sẽ thúc đẩy người đó thường luôn xả thí, cho ra.

Nghiệp Báo

Là Quả được trổ sinh của Nghiệp Bất Thiện.  Nghiệp Báo cũng được dùng theo nghĩa thế gian là Nghiệp Dĩ.  Ví dụ khi gặp một việc không được như ý, bị bệnh, tai nạn, mất tài sản thì người ta thường hay nói đó là Nghiệp.

Trong một ngày, con người tạo không biết bao nhiêu là Nghiệp qua thân hành động, lời nói, và ý nghĩ suy.  Và trong một tuần, một tháng, một năm, hay một kiếp con người, đã tạo bao nhiêu Nghiệp ? Có được bao nhiêu Thiện Nghiệp, và bao nhiêu Bất Thiện Nghiệp ?  Cứ Như vậy con người nói, làm, và suy nghĩ miên mật, không ngừng nghỉ, từ khi đi vào thế gian, cho đến khi lìa khỏi thế gian này.  Và cứ Như vậy tiếp nối một dòng sinh tử, do dòng Nghiệp Lực thúc đẩy, lôi kéo.  Nghiệp Báo đưa con người hoặc chúng sinh đi trong vòng lẩn quẩn luân hồi, sinh tử, khổ đau.  Ở đây xin được tạm chia Nghiệp làm hai phần tổng quát là Nghiệp Bất Thiện và Nghiệp Thiện:

Nghiệp Bất Thiện có 20 và được chia làm hai thể loại, gồm: 1. 10 Nghiệp Bất Thiện, còn được gọi là Thập Bất Thiện Nghiệp, 2. 10 Nghiệp Ác, còn được gọi là Thập Ác Nghiệp.

Nghiệp Thiện có 20 và được chia làm hai thể loại, gồm: 1. 10 Nghiệp Thiện, còn được gọi là Thập Thiện Nghiệp, 2. 10 Thiện Nghiệp dùng để ngăn trừ Thập Ác Nghiệp.

Thập Phúc Hành Tông, còn được gọi là Thập Phúc Hành Tông.